cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

115/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 956
  • 19

Tranh chấp quyền sử dụng đất

25-03-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 20/1/2010 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Mạnh, bà NĐ_Miên trình bày: cha mẹ ông NĐ_Mạnh (là cụ Nguyễn Đính và cụ Nguyễn Thị Chấn) chết có để lại cho vợ chồng ông bà một thửa đất thổ cư khoảng 3 sào tương đương 1.500m2 (có tứ cận). Ở phía nam của thửa đất ông bà có xây dựng một ngôi nhà cách tường nhà ông Bảy 1,8m dùng để buôn bán nhỏ và sửa xe đạp. Ngày 20/4/1989 vợ chồng ông bà bán ngôi nhà này gắn liền với 80m2 đất cho bà Đào Thị Giàu (chị ruột bà NĐ_Miên) với giá 160.000 đồng. Hai bên xác lập giấy mua bán viết tay, không có chứng thực. Trong giấy mua bán có thỏa thuận, sau này bà Giàu không có nhu cầu sử dụng nữa thì sẽ nhượng lại cho ông bà.


112/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 210
  • 1

Tranh chấp quyền sử dụng đất

25-03-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 5/9/2005 nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Văn Khoa trình bày: Năm 1959, cha mẹ ông lập di chúc chia tài sản cho các con (có xác nhận của chính quyền chế độ cũ). Theo di chúc ông được hưởng 1,6 công đất (1.600m2) trên đất có căn nhà hương quả (tại ấp 4, xã APT, huyện BT). Do lúc được chia đất ông còn đi học nên chị gái là bà Nguyễn Thị Mừng quản lý và sử dụng. Năm 1967, vợ chồng bà Mừng lén bán căn nhà hương quả trên đất cho bà Võ Thị Đâu và cho bà Đâu thuê đất với thời hạn 15 năm (1967 đến 1982).


111/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 397
  • 6

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

25-03-2014

Tại đơn khởi kiện ngày 30/9/2008 nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Văn Rân trình bày: Ông có diện tích đất 750m2 tọa lạc tại ấp Xóm Đồng, xã TPT, huyện CC do con trai ông là anh BĐ_Nguyễn Văn Thông quản lý, sử dụng từ năm 1994. Năm 2001, ông viết giấy tay chuyển nhượng cho anh BĐ_Thông phần đất 324m2 (trong số 750m2 nêu trên) với giá 62 triệu đồng, phần đất còn lại 426m2 ông chỉ cho anh BĐ_Thông mượn. Năm 2007, anh BĐ_Thông làm hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, khi đó ông có giao kèo chỉ chuyển nhượng phần diện tích 324m2 đất mà ông đã ký giấy tay bán cho anh BĐ_Thông năm 2001 chứ không chuyển nhượng toàn bộ phần diện tích đất mà anh BĐ_Thông đang sử dụng 750m2.


110/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 402
  • 4

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

25-03-2014

Ngày 08/12/2009, bà NĐ_Phạm Thị Bích Nga có cho bà BĐ_Nguyễn Thị Sang vay số tiền 2.500.000.000đ (hai tỷ năm trăm triệu đồng), hợp đồng có chứng thực của phòng công chứng, thời hạn vay là 02 tháng, lãi suất vay là 3%. Vì tin tưởng nhau nên ngày 18/12/2009, bà NĐ_Nga và bà BĐ_Sang có lập hợp đồng hợp tác liên doanh (bà BĐ_Sang là chủ doanh nghiệp tư nhân Nguyễn Sanh) xây dựng chung cư 17 Củ Chi, phường VH, thành phố NT. Để hoàn thành hợp đồng này, từ ngày 15/12/2009 đến ngày 18/12/2009, bà NĐ_Nga đã chuyển cho bà BĐ_Sang tổng cộng số tiền 4.000.000.000đ (bốn tỷ đồng). Từ khi nhận được tiền, bà BĐ_Sang cố tình không thực hiện đúng theo các thỏa thuận đã ký kết trong hợp đồng. Nay bà NĐ_Nga yêu cầu bà BĐ_Sang phải trả lại cho bà tổng số tiền đã nhận là 6.500.000.000đ (sáu tỷ năm trăm triệu đồng) và lãi suất theo quy định của pháp luật.


109/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1369
  • 33

Tranh chấp quyền sử dụng đất

24-03-2014

Theo Đơn khởi kiện ngày 21/8/2009 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - bà NĐ_Phạm Thị Sang trình bày: Vào năm 2001 bà có bán cho ông BĐ_Sĩ 1.000m2 đất với số tiền 250.000.000 đồng. Sau đó ông BĐ_Sĩ giới thiệu ông Phan Văn Phương mua của bà thêm 1.000m2 đất cũng với số tiền 250.000.000 đồng. Phần đất của ông Phương mua nằm sát đường đi, lúc đó ông Phương có nói nếu ông có đi lối đi của bà thì ông đưa thêm 5.000.000 đồng, còn nếu không đi vào lối đi của bà thì ông không đưa số tiền trên. Một thời gian sau thì ông Phương bán phần đất trên lại cho ông BĐ_Sĩ, ông BĐ_Sĩ có xây nhà và trổ thêm cửa ra lối đi của bà thì bà không đồng ý nên vào năm 2003 bà có gửi đơn đến Ủy ban nhân dân xã TK nhờ giải quyết, ông BĐ_Sĩ trình bày chỉ mở lối thoát hiểm, không đi vào con đường này nên bà đã rút đơn. Sau đó phần đường đi chung này đã bị ông BĐ_Sĩ lấn chiếm và rào lại, vì vậy, bà tiếp tục làm đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân xã TK giải quyết nhưng không thành. Nay bà khởi kiện với yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông BĐ_Trần Sĩ phải trả lại con đường đi công cộng có diện tích 153,2m2.