94/2013/GĐT-DS Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1581
- 53
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Theo đơn khởi kiện ngày 17/10/2003 nguyên đơn là ông Nguyễn Xuân Lai và bà Nguyễn Thị Nhân trình bày: Năm 1973, cha mẹ ông là cụ Nguyễn Xuân Ba và cụ Đặng Thị Tình mua căn nhà số 02 đường Nguyễn Thái Học, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định của cụ Nguyễn Cậy (sinh năm 1926), việc mua bán có giấy viết tay nay vẫn còn và cụ Cậy đang còn sống cũng xác nhận việc mua bán này. Nhà mua để làm nơi đậu xe, nhà lợp tôn quây lưới B40. Sau giải phóng năm 1975, cha mẹ ông bà vào Hợp tác xã xe khách Nghĩa Bình nên xe đậu tại bến xe. Đến năm 1977, cụ Ba cho tập thể Khu vực 6 phường Lê Hồng Phong mượn nhà để làm trường mẫu giáo và nơi hội họp của Khu vực.
82/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 560
- 12
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Ngày 24/12/1973, vợ chồng cụ Huyện tự ý bán một căn nhà lợp tole, vách ván, nền xi măng (nay là số 128/1 Nguyễn Văn Quá, khu phố 2, phường Tân Thới Hiệp, quận 12) cho cụ Trương Chan với giá 80.000 đồng (riêng phần đất thì không bán mà cụ Trương Chan vẫn phải trả tiền thuê hàng năm là 500 đồng). Sau khi phát hiện cụ Huyện tự ý bán phần đất chung là phần nhà xây trên đất thừa kế thì cụ Nhứt tranh chấp từ năm 1990 và khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, ngày 28/4/2006 cụ Nhứt chết. Nay ông đại diện cho các thừa kế của cụ Nhứt yêu cầu hủy việc mua bán nhà giữa cụ Mười, cụ Huyện với cụ Trương Chan. Ông đồng ý hoàn trả tiền mua nhà và chi phí sửa chữa, đồng thời chấp nhận bồi thường thiệt hại, yêu cầu bà Nhỏ (con của cụ Trương Chan) trả nhà trong thời hạn 02 tháng, khi di dời sẽ hỗ trợ 50 triệu đồng. Trường hợp bà Nhỏ muốn tiếp tục sử dụng nhà thì phải hoàn trả giá trị đất và thanh toán giá trị đất trong 6 tháng.
14/2001/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 372
- 16
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Vào năm 2008 vợ chồng ông bà BĐ_Lê Thị Đan và ông BĐ_Nguyễn Văn Duy có vay của ông Nguyễn Văn Hùng và NĐ_Trần Thị Thy 20 lượng vàng 99% và đến tháng 01 năm 2009 vay tiếp 200.000.000 đồng, thời hạn trả là 02 năm với mức lãi suất thỏa thuận là 1%/tháng. Đến tháng 04/2010 ông BĐ_Duy, bà BĐ_Đan không còn khả năng chi trả nên ông BĐ_Duy, bà BĐ_Đan thống nhất giao cho ông NĐ_Huy và bà NĐ_Thy một phần đất diện tích 247,4 m2, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00719....QSDĐ/866/QĐ-UB(HL), đất tọa lạc tại xã TH, huyện TC, tỉnh TN, hai bên có làm chuyển nhượng QSDĐ vào ngày 14/04/2010 và hợp đồng chuyển nhượng này đã được công chứng chứng thực.
135/2011/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1544
- 55
Ngày 06/8/2004 ông Dân lập di chúc chia đất cho các con có Ủy ban nhân dân xã ĐP chứng thực, cụ thể: Ông NĐ_Bình được hưởng 90,20m2, ông NĐ_Hiền được hưởng 50,60m2, bà NĐ_Mai được hưởng 19,50m2, ông BĐ_Tâm được hưởng 106,70m2. Sau khi chia đất các anh chị em đều cất nhà ở ổn định. Riêng căn nhà thờ trong di chúc không chia cho ai.
73/2011/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 5263
- 141
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Quá trình sử dụng nhà ông BĐ_Đại đã tự ý xây dựng thêm nhiều căn nhà trên đất khuôn viên, tổ chức đá gà, cho thuê mặt bằng... Năm 2004, ông Đức - bà Mỹ khiếu nại tại Ủy ban nhân dân phường A, quận BT và đề nghị Sở quản lý nhà đất - công trình công cộng thành phốHCM hủy bỏ việc ủy quyền nhà cho ông BĐ_Đại. Do Nhà nước chưa có chủ trương giải quyết các tranh chấp giao dịch về nhà ở xác lập trước ngày 01/7/1991 có liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài, nên năm 2006 Tòa án nhân dân thành phố HCM trả lại đơn khởi kiện của ông Đức - bà Mỹ.