129/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 226
- 1
NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện ngày 03/6/2010 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn- ông NĐ_Nguyễn Minh Chung trình bày: cha mẹ ông là cụ Nguyễn Nhạc và cụ Nguyễn Thị Diệc (đều đã chết) để lại tài sản là căn nhà trên diện tích đất 1,490m2 thuộc thửa 106, tờ bản đồ số 10, tại thôn Tân Mỹ, xã QP, huyện QT, tỉnh QB. Cha mẹ ông chết không để lại di chúc, các anh chị em ông thống nhất cho ông quản lý, sử dụng nhà đất nêu trên. Năm 2009, do Nhà nước mở đường đi qua một phần đất của ông, nên hàng rào cũ giáp với con đường mới mở không còn, khi ông tiến hành xây dựng lại hàng rào thì ông BĐ_Nguyễn Quang Đông và bà BĐ_Nguyễn Thị Kiên đến ngăn cản và cho rằng trong thửa đất ông đang quản lý, sử dụng có một phần đất của cha mẹ ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên; đồng thời ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên tự ý xây móng hàng rào và xây một tấm bia trên thửa đất ông đang quản lý, sử dụng. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên phải tháo dỡ hàng rào và tấm bia ra khỏi thửa đất của gia đình ông.
115/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 953
- 19
Theo đơn khởi kiện ngày 20/1/2010 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Mạnh, bà NĐ_Miên trình bày: cha mẹ ông NĐ_Mạnh (là cụ Nguyễn Đính và cụ Nguyễn Thị Chấn) chết có để lại cho vợ chồng ông bà một thửa đất thổ cư khoảng 3 sào tương đương 1.500m2 (có tứ cận). Ở phía nam của thửa đất ông bà có xây dựng một ngôi nhà cách tường nhà ông Bảy 1,8m dùng để buôn bán nhỏ và sửa xe đạp. Ngày 20/4/1989 vợ chồng ông bà bán ngôi nhà này gắn liền với 80m2 đất cho bà Đào Thị Giàu (chị ruột bà NĐ_Miên) với giá 160.000 đồng. Hai bên xác lập giấy mua bán viết tay, không có chứng thực. Trong giấy mua bán có thỏa thuận, sau này bà Giàu không có nhu cầu sử dụng nữa thì sẽ nhượng lại cho ông bà.
64/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 366
- 8
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Ngày 30/11/2001, bà NĐ_Hân và bà NĐ_Vy chung tiền mua 2,5 công đất (2.500m2) đất trong 4.900m2 đất tại thửa số 62, tờ bản đồ 37 tại An Phước, phường 11, thành phố VT của vợ chồng ông BĐ_Trần Văn Thông và bà BĐ_Trần Thị Phụng với giá 25 cây vàng (10 cây vàng/công). Do ông BĐ_Thông chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông BĐ_Thông đồng ý bớt cho bên mua 01 cây vàng để sau này làm thủ tục sang tên. Bên mua đã đã cọc 15 cây vàng, còn thiếu 9 cây. Ngày 30/7/2004, ông BĐ_Thông yêu cầu bên mua thanh toán nốt tiền nên bà NĐ_Hân trả tiếp 09 cây vàng. Các bà yêu cầu ông BĐ_Thông đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông BĐ_Thông cho biết ông LQ_Nguyễn Hữu Bảo cầm để tách thửa (ông LQ_Bảo là người nhận chuyển nhượng 2400m2).
560/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 619
- 7
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn ông NĐ_Lê Văn Chấn trình bày: Ông và vợ là bà LQ_Lê Ngọc Minh vay của vợ chồng bà BĐ_Ngô Thị Dương, ông LQ_Mai Văn Khoa nhiều làn với số tiền vốn và lãi là 344.000.000 đồng. Do không có khả năng thánh toán nên vợ chồng ông thỏa thuận giao cho vợ chồng bà BĐ_Dương 30 công ruộng nuôi tôm, bà BĐ_Dương tính toán đất có giá 252.000.000 đồng nên chỉ trừ 252.000.000 đồng tiền vay và quy đổi thành 360 chỉ vàng 24 kra, số tiền còn lại là 92.000.000 đồng (344.000.000 — 252.000.000 = 92.000.000 đồng) vợ chồng ông bà làm biên nhận nợ với bà BĐ_Dương. Việc quy đổi, tính nợ như vậy là do bà BĐ_Dương tính và hai bên có làm “Tờ sang nhượng đất nuôi tôm” vào ngày 28/3/2004 và ghi giá là 360 chỉ vàng 24k nhưng thực chất ông bà không nhận vàng. Nay vợ chồng ông bà yêu cầu hủy giấy tay chuyển nhượng đất nuôi tôm nêu trên, ông bà đồng ý trả cho vợ chồng bà BĐ_Dương 148.000.000 đồng tiền vay nợ ban đầu.
539/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 461
- 7
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện ngày 29/06/2009 và những lời khai tiếp theo, ông NĐ_Phạm Ngọc Thịnh trình bày: Năm 1998, ông BĐ_Nguyễn Văn Bình chuyển nhượng cho ông phần đất lúa diện tích 2000m2 thửa số 1128 tờ bản đồ số 02 do ông BĐ_Nguyễn Văn Bình đứng tên quyền sử dụng đất với giá là 03 cây vàng, quy ra tiền lúc đó là 15.000.000 đồng. Hai bên có lập giấy tờ mua bán, ông đã giao vàng đầy đủ cho ông BĐ_Nguyễn Văn Bình và được giao đất sử dụng từ năm 1998 đến nay. Ông giao lại đất cho cháu là LQ_Bạch Văn Tiến quản lý canh tác. Ông BĐ_Nguyễn Văn Bình đã giao cho ông giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đi làm thủ tục chuyển nhượng nhưng do bận công việc nên ông chưa thực hiện. Sau đó, ông BĐ_Nguyễn Văn Bình mượn lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục vay vốn ngân hàng vài tháng, vì tình nghĩa chòm xóm nên ông giao lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông BĐ_Bình.