cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

790/2013/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 415
  • 8

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

17-07-2013
TAND cấp tỉnh

Năm 1999 bà NĐ_Nguyễn Lệ Thủy có mua căn nhà số 47 NTH, phường 8, quận PN, thành phố HCM với giá 100 lượng vàng SJC (9999), Do bà là Việt, kiều chưa được Nhà nước cho mua nhà tại Việt Nam vào thời Điểm đó, hơn nữa căn nhà nói trên lúc bà mua đang thuộc diện Nhà nước quản lý (chủ nhà cũ đang làm hồ sơ chuẩn bị được Nhà nước bán hóa giá), nên bà có nhờ vợ chồng người cháu là BĐ_Đỗ Hữu Nguy và BĐ_Lưu Hồng Hân là con của người bạn thân đứng ra thay mặt bà làm thủ tục pháp lý về việc mua bán sang nhượng căn nhà số 47 NTH giúp bà, vợ chồng ông BĐ_Nguy, bà BĐ_Hân đồng ý đề nghị của bà NĐ_Thủy và ngày 22/8/1999 cùng lúc bà NĐ_Thủy giao 100 lượng vàng SJC (9999) cho chủ bán xong, thì vợ chồng ông BĐ_Nguy, bà BĐ_Hân có ký tờ giấy nợ cho bà NĐ_Thủy với nội dung: “Chúng tôi là BĐ_Đỗ Hữu Nguy, BĐ_Lưu Hồng Hân có mượn của cô Tám (tức bà NĐ_Nguyễn Lệ Thủy) số vàng là 100 cây vàng SJC 9999 về việc thay mặt cô Tám sang và mua căn nhà số 47 NTH, phường 8, quận PN, thành phố HCM. Tất cả quyền định đoạt về căn nhà trên do cô Tám quyết định. Chúng tôi cam kết sẽ thực hiện theo những đề nghị mà cô Tám đã tin cậy giao phó giữ gìn”.


49/2013/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 274
  • 6

Tranh chấp quyền sử dụng đất

25-04-2013
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện nộp ngày 27/10/2009 và các lời khai của nguyên đơn ông NĐ_Phạm Văn Mặn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà LQ_Nguyễn Thị Minh đo ông Phạm Hoàn Hải đại diện trình bày: phần đất điện tích 748m2 thuộc phần đất thửa 168 tờ bản đồ 07 xã HP huyện NB ông NĐ_Phạm Văn Mặn khai phá từ năm 1975 đến năm 1978, có cho anh ruột là ông Phạm Văn Ngọc ở nhờ để nuôi vịt. Đến năm 1995 thì ông Ngọc chết, con Ông Ngọc là BĐ_Phạm Văn Kha đã tự đăng ký sử dụng phần đất trên và được UBND huyện NB cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất trên. Nay ông yêu cầu UBND huyện NB thu hồi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho BĐ_ Kha và BĐ_ Kha phải trao trả lại cho ông phần đất trên.


124/2013/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 339
  • 8

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

24-04-2013
TAND cấp huyện

Nguyên vào ngày 01/01/2010, ông BĐ_Nguyễn Văn Tiến và bà BĐ_Trần Thị Ngọc Xuân có vay tiền của ông NĐ_Chinh thông qua hợp đồng vay vốn kinh doanh với số tiền là 1.960.000.000 đồng, thời hạn vay là 12 tháng cộng với nợ cũ là 37.000.000 đồng. Ông BĐ_Tiến hứa sẽ bán đất đề trả tiền cho ông. Nhưng đến nay đã quá thời hạn trả nợ mà ông BĐ_Tiến và Bà BĐ_Xuân không trả cho ông. Nay ông NĐ_Chinh yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông BĐ_Tiến, bà BĐ_Xuân phải trả cho ông số tiền vay tổng cộng là 1.997,000.000đ (Một tỷ chín trăm chín mươi bảy .triệu đồng) và tiền lãi theo mức lãi suầt 3,5% 1 tháng tính từ tháng 01/2010 cho đến ngàv xét xử của số tiền 1.960.000,000 đồng, số tiền 37.000.000 đồng ông NĐ_Chinh không yêu cầu tính lãi.


131/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2047
  • 38

Tranh chấp thừa kế

27-09-2013

Về xác định di sản: Các đương sự thừa nhận cố Khuê, cố Hiến chết để lại 7040m2 đất đã có Bằng khoán điền thổ số 152 ngày 12/9/1937 do cố Khuê đứng tên, trên đất khi giao cho cụ Cử quản lý có cây lâu năm do hai cố để lại. Sau khi hai cố chết, những người con khác của hai cố đã quản lý đất và cây, đến năm 1962 mới giao cho cụ Cử quản lý, năm 1972 cụ Cử mới làm nhà ở trên đất. Cụ Cử cũng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai, không có giấy tờ gì thể hiện việc được các anh chị cho hưởng riêng tài sản này. Theo quy định tại Điều 247 Bộ luật dân sự về việc xác lập quyền sở hữu bất động sản theo thời hiệu thì tính đến thời điểm các nguyên đơn khởi kiện năm 1988 thì cụ Cử chưa trực tiếp sử dụng đất tranh chấp được 30 năm, nên không có cơ sở xác định đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của cụ Cử như Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm quyết định là có căn cứ. Nội dung kháng nghị cho rằng đất tranh chấp không còn là di sản của cố Khuê, cố Hiến để lại là không có cơ sở chấp nhận.


09/2015/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1165
  • 37

Tranh chấp quyền sử dụng đất

28-01-2015
TAND cấp tỉnh

Nguồn gốc đất Đình làng TT (Đất công điền) được công nhận tại Quyết định số 51/UBH ngày 30/7/1991, trên cơ sở bảng xác nhận hồ sơ địa chính của Chi cục quản lý đất đai ngày 30/9/1991, sơ đồ địa bộ bằng khoán số 58 xã TT gồm lô 91 và 92 tờ thứ 1 có diện tích 1m52s80m2 (tương đương 15.280m2) đất ruộng vườn tọa lạc tại TT có tứ cận cụ thể thuộc quyền sở hữu của đất Làng TT ngày 12/10/1934. Sau ngày tiếp thu năm 1975 lợi dụng đất Đình không người quản lý ông BĐ_Nguyễn Văn Mai đã lấn chiếm đất Đình. Đến ngày 30/7/1991 Đình TT được Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành (nay là quận CR) giao trả phần đất trên cho NĐ_Ban Trung Đình quản lý. Ngày 01/2/1993 Đình xác định lại ranh giới phát hiện ông BĐ_Mai lấn chiếm 806m2 đất của Đình. Nay NĐ_Ban Trung Đình yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành đã cấp cho hộ ông BĐ_Nguyễn Văn Mai, vì đất cấp sai pháp luật và buộc ông BĐ_Mai tự tháo dỡ nhà máy di dời đi nơi khác trả lại 806m2 diện tích đất lấn chiếm của Đình.