29/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 352
- 15
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Vào tháng 2 năm 1992 gia đình bà NĐ_Tám có mua một miếng đất của anh Ngô Trung Hiếu với diện tích 412m2, đất mặt tiền đường LĐC, trên đất có một căn nhà với diện tích 60m2 tọa lạc tại địa chỉ: 16/9C thuộc Xã AK, Huyện TĐ, Thành phố HCM với bề ngang 9m2, dài 39m2, tuy nhiên trong giấy tờ diện tích đất là 350m2, hiện trạng lúc đó là đất ở (do đất mở bên hông nên khi đo vào năm 2010 tổng diện tích là 412m2), đất được sử dụng phục vụ cho đoàn xe ben chở đất cát của anh Hiếu, đồng thời gia đình bà NĐ_Tám có mua thêm 2 chiếc xe ben để nhập chung vào đoàn xe ben của anh Hiếu. Đến tháng 8 năm 2001 bà NĐ_Tám có làm đơn xin BĐ_Uỷ ban nhân dân Quận X cất lại nhà cửa. Vào năm 2002, vì dự tính cưới vợ cho con trai là LQ_Ngô Hoàng Thái Nông nên bà NĐ_Tám đã cắt cho cháu Long miếng đất với diện tích 209m2 để cất nhà. Kể từ khi gia đình bà NĐ_Tám mua đất cho đến nay thì hiện trạng đất là đất ở và những công trình trên đất đều phục vụ cho nhà ở và đất ở.
27/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 375
- 16
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư
Theo đơn khởi kiện ngày 02/7/2013, bản tự khai ngày 04/09/2013, biên bản đối thoại ngày 29/08/2014; và tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của người khởi kiện – Ông Phạm Minh Dũng trình bày: Vào ngày 9/7/2012 bà NĐ_Diệp Như Châm, bà NĐ_Huỳnh Thị Lâm và ông NĐ_Diệp Minh nhận được Quyết định số 8615/QĐ-UB ngày 02/7/2012 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Quận R về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với ông (bà) NĐ_Huỳnh Thị Lâm- NĐ_Diệp Như Châm- NĐ_Diệp Minh (Là những người thừa kế hợp pháp của ông Diệp Tấn Tài đã chết) có căn nhà (thửa đất) số : Một phần thửa 2164, 2161, rạch, tờ bản đồ số 4 (tài liệu 299/TTg), nay thuộc một phần thửa 18, tờ bản đồ đồ 55 (Tài liệu năm 2003) phường AP, Quận R. Quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 8615/QĐ-UBND ngày 02/7/2012 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Quận R được ban hành không đúng quy định của pháp luật, vi phạm về trình tự thủ tục ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất, đồng thời nội dung Bảng chiết tính có một số chi tiết sai và thiếu sót, chính vì vậy đã làm thiệt hại rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà NĐ_Diệp Như Châm, bà NĐ_Huỳnh Thị Lâm và ông NĐ_Diệp Minh
21/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 425
- 13
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Ngày 04/12/2013 Uỷ ban nhân dân quận TĐ ban hành Quyết định số 7099/QĐ-UBND về việc chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ trong dự án Mở rộng Quốc lộ 1 đoạn từ Nút giao thông TĐ (Trạm 2) đến ranh tỉnh Bình Dương để chi trả, bồi thường cho ông LQ_Phạm Văn Phải và bà NĐ_Nguyễn Thị Xuân có tài sản bị thu hồi giải tỏa tại địa chỉ: 9/8 Quốc lộ 1, Khu phố 6, phường LT, quận TĐ, Thành phố HCM với tổng số tiền 3.416.375.258 đồng. Diện tích đất bị thu hồi là 327,3 m2 và tài sản gắn liền. Ngày 06/12/2013 bà nhận Quyết định, không đồng ý với nội dung quyết định nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân quận TĐ hủy quyết định với những lý do sau: Về thẩm quyền: BĐ_Ủy ban nhân dân quận TĐ ban hành quyết định không đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 124; điểm b khoản 1 Điều 127 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003. Đây là quyết định hành chính cá biệt nên thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
20/2014/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 741
- 10
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Người khởi kiện bà NĐ_Hoàng Thị Minh ủy quyền cho bà Dương Thị Khánh Phương đại diện trình bày: Vào năm 1992, vợ chồng bà NĐ_Minh có nhận chuyển nhượng của bà Lê Thu Thuỷ khoảng 131,88 m2 đất, ngay trong năm 1992, vợ chồng bà NĐ_Minh đã cất nhà và sử dụng ổn định từ đó cho đến nay. Nay nhà đất nằm trong khu quy hoạch giải toả, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X đã ban hành quyết định số 5629/QĐ-UBND ngày 18 tháng 4 năm 2011, theo nội dung của quyết định thì BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X chỉ bồi thường cho vợ chồng bà NĐ_Minh phần diện tích đất là 54,77 m2 và đền bù phần kiến trúc trên đất không đúng với thực tế nên từ đó bà NĐ_Minh đã khiếu nại đến BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X, qua khiếu nại, BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành quyết định số 8605/QĐ- UBND ngày 8 tháng 7 năm 2011 có nội dung đền bù hổ trợ thêm cho bà NĐ_Minh số tiền 112.320.885 đồng. Việc BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X ban hành 2 quyết định số 5629/QĐ-UBND ngày 18 tháng 4 năm 2011 và quyết định số 8605/QĐ- UBND ngày 8 tháng 7 năm 2011 bồi thường hổ trợ cho bà NĐ_Minh không đúng thực tế, không thoả đáng nên bà NĐ_Minh tiếp tục khiếu nại và BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số 675/QĐ- UBND-TTr ngày 11 tháng 1năm 2012 có nội dung giữ nguyên nội dung quyết định số 8605/QĐ- UBND ngày 8 tháng 7 năm 2011.
18/2014/ HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 607
- 12
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Theo Đơn khởi kiện ngày 25/10/2011, Đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 01/10/2013, bản tự khai, biên bản đối thoại và tại phiên Tòa, người khởi kiện – bà NĐ_Nguyễn Thị Đa có ông Hà Ngọc Tuyền là người đại diện theo ủy quyền yêu cầu Tòa án nhân dân Quận X hủy Quyết định số 10293/QĐ – UBND ngày 19/7/2010 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X và Quyết định số 12179/QĐ – UBND – TTr ngày 16/9/2011; yêu cầu BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X phải bồi thường toàn bộ 3.597m2 theo mức 100% giá đất ở là 16.200.000đ/m2 vì vào thời điểm thu hồi giải tỏa để thực hiện dự án Liên tỉnh lộ 25B giai đoạn 2 đất này đã được san lấp theo Giấy phép số 40/GP – UB – QLĐT ngày 05/4/2000 của BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X và có vị trí mặt tiền đường, đất thu hồi có nguồn gốc là đất trong cùng một thửa có nhà ở; yêu cầu công nhận diện tích 3.597m2 đất bị thu hồi thuộc quyền sở hữu chung của 26 hộ dân, không phải của cá nhân bà NĐ_Nguyễn Thị Đa, buộc BĐ_Ủy ban nhân dân Quận X phải xét hạn mức bồi thường cho 26 hộ chứ không phải hạn mức bồi thường cho 01 hộ.