380/2006/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 2931
- 78
Tranh chấp hợp đồng mua bán hóa chất
Ngày 05/11/2003 NĐ_Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường có văn bản yêu cầu BĐ_Công ty TNHH Tocoro Mall khắc phục hậu quả thiệt hại nhưng không được BĐ_Công ty TNHH Tocoro Mall giải quyết. Do đó, NĐ_Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường đã làm đơn khởi kiện yêu cầu BĐ_Công ty TNHH Tocoro Mall phải bồi thường thiệt hại cho NĐ_Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Ngọc Hường số tiền là 121.000USD.
46/2006/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 674
- 19
Ngày 07/3/1995, Công ty Xuất nhập khẩu sản xuất cung ứng vật tư, Bộ giao thông vận tải nay chuyển đổi là BĐ_Tổng Công ty Cổ phần Thương mại xây dựng Thành Đô có thư bảo lãnh số 142 cho chi nhánh Sài Gòn Vietracimex là đơn vị trực thuộc của BĐ_Tổng Công ty Cổ phần Thương mại xây dựng Thành Đô vay tiền của chi nhánh Ngân hàng Công thương Hải An thành phố HCM thuộc NĐ_Ngân hàng Công thương Hải An. Thư bảo lãnh với số tiền 10 tỷ đồng có tài khoản 710-A00477 tại NĐ_Ngân hàng Công thương Hải An và tài khoản ngoại tệ số 362-111-370333 tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
411/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 590
- 14
Tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
Năm 1965, ông NĐ_Nguyễn Văn Nhiên kết hôn với bà Phạm Thị Hường. Vợ chồng sinh được 4 con là: Sơn, Hiền, BĐ_Thứ, BĐ_Sang. Cả gia đình sinh sống tại nhà đất của bố mẹ ông để lại tại Thôn 6, xã QP. Năm 1984 bà Hường chết, năm 1987 ông kết hôn với bà LQ_Nguyễn Thị Nga ở cùng thôn và về nhà bà LQ_Nga sống. Năm 1991 ông được UBND huyện QT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 500m2 trong đó 200m2 đất ở, 300m2 đất vườn thuộc thửa 886 tờ bản đồ 03 xã QP. Nhà đất trên do anh BĐ_Nguyễn Ngọc Sang, BĐ_Nguyễn Xuân Thứ sử dụng. Khoảng tháng 3/2001, anh BĐ_Sang nói với ông cho anh BĐ_Sang mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ký giấy ủy quyền để anh BĐ_Sang thế chấp vay tiền ngân hàng chữa bệnh cho vợ. Do không đọc nên ông đã ký, nhưng sau đó ông mới biết là anh BĐ_Sang lừa ông để ký vào giấy chứng nhận cho con đất và anh BĐ_Sang đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Ông đã có đơn đề nghị và năm 2009 UBND huyện QT đã ra quyết định hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh BĐ_Sang và phục hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông. Nay ông khởi kiện yêu cầu anh BĐ_Sang, anh BĐ_Thứ phải trả lại nhà đất trên cho ông
40/2014/GĐT-DS Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1068
- 25
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Căn nhà số 319 NTL, phường 13, quận BT diện tích 369,86m2 nằm trong khuôn viên 1356m2 đất do cụ Âu Ngọc và cụ Phù Cải (cha, mẹ của bà) mua năm 1967. Ngày 04/01/1993 cụ Ngọc, cụ Cải chuyển nhượng cho Công ty Xuất nhập khẩu, sản xuất, dịch vụ và đầu tư quận 1, thành phố HCM (Sunimex) căn nhà trên khuôn viên 1.540m2 đất (22m X 70m). Phần chái bên phải của căn nhà có diện tích 280m2 (4m X 70m) các cụ giữ lại để làm nhà ở. Do cụ Cải bị bệnh phải về nhà bà LQ_Âu Mẫn (số 15/8 ấp Trung Tre, xã LX, quận TĐ) để ở và chữa bệnh, nên phần chái nhà nêu trên các cụ giao cho bà LQ_Âu Mỵ, ông Nguyễn Văn Đan (con gái và con rể) ở. Năm 1994, khi bà LQ_Mỵ, ông Đan sang Mỹ định cư, bà BĐ_Miên, ông Thái mượn diện tích đất này làm lối đi với lý do lối đi phía đường ray xe lửa (nay là hẻm số 318 Nguyễn Xí, phường 13, quận BT) đã bị chủ đất bịt lại, sau đó bà BĐ_Miên, ông Thái tự ý làm chủ quyền nhà đứng tên ông Thái, bà BĐ_Miên. Khi biết được việc này, cụ Ngọc đã khiếu nại với ủy ban nhân dân phường 13, quận BT, nhưng cho đến nay vẫn chưa được giải quyết. Năm 1995, cụ Cải chết không để lại di chúc. Năm 2000, cụ Ngọc chết có di chúc để lại diện tích nhà, đất 280m2 (4m X 70m) tại số 319 đường NTL, phường 13, quận BT cho bà được hưởng, nên bà yêu cầu bà BĐ_Miên và các con của bà BĐ_Miên trả lại diện tích nhà, đất nêu trên cho các thừa kế của cụ Ngọc, cụ Cải.
318/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 936
- 18
Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 132/2011/BSPT ngày 18/7/2011 của Tòa án nhân dân thành phố HN và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 09/2010/DSST ngày 26/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện TL (nay là Tòa án nhân dân quận Nam TL), thành phố HN về vụ án “Tranh chấp chia thừa kế” giữa nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Đình Ba, bà NĐ_Nguyễn Thị Thắm (tức NĐ_Trúc), anh NĐ_Nguyễn Minh Lợi, bà NĐ_Nguyễn Thị Lam với bị đơn là ông BĐ_Nguyễn Đình Khanh, bà BĐ_Nguyễn Thị Hân và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.