23/2012/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
- 1604
- 42
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Chiều ngày 09/06/2011 nguyên đơn nhận được thông báo qua email nội bộ của Công ty rằng Công ty sẽ chấm dứt hợp đồng lao động với nguyên đơn sớm hơn ngày 13/06/2011, đồng thời không thực hiện phụ lục hợp đồng ký ngày 17/02/2011 về tiền thưởng dự án. Không chấp nhận việc bị đơn buộc thôi việc nguyên đơn mà không tuân thủ thời hạn báo trước theo luật định, đồng thời căn cứ quy định tại Điều 40 Bộ luật lao động về việc “mỗi bên có quyền từ bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước khi hết thời hạn báo trước”. Ngay trong ngày 09/06/2011 nguyên đơn đã có thư phản đối gửi bị đơn để phản đối về việc bị đơn không tuân thủ thời hạn báo trước theo quy định pháp luật và không thực hiện phụ lục hợp đồng đã ký.
21/2012/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
- 446
- 18
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Ngày 06/4/2011, Công ty ban hành Quyết định số 21-2011/ĐĐPCDHĐ-TGĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông NĐ_Khoa với lý do sắp tới công ty không còn chức năng đào tạo nhân viên. Thực tế là phòng Nghiệp vụ - Đào tạo của công ty đổi tên thành phòng Kế hoạch, vẫn còn bộ phận nghiệp vụ kiêm nhiệm chức năng Đào tạo nghiệp vụ. Chức danh Trưởng phòng nghiệp vụ chịu trách nhiệm quản lý nghiệp vụ, điều động nhân viên tại các mục tiêu, tuyển dụng đào tạo. Nay nguyên đơn yêu cầu Tòa án hủy quyết định về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của BĐ_Công ty Nam Minh Quân và buộc bị đơn phải nhận nguyên đơn trở lại làm việc với vị trí trưởng phòng nghiệp vụ đào tạo với mức lương 6.500.000 đồng .
06/2012/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
- 744
- 21
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Từ năm 2006 đến năm 2009 Ông NĐ_Hữu được Trung tâm cho đi học tại Thái Lan trong thời hạn 3 năm, đến ngày 24/8/2009 về nước và được Trung Tâm thông báo tiếp tục đảm nhiệm vị trí Trưởng cơ sở của BĐ_Trung Tâm Ngoại Ngữ Đại Học NL Tp HCM tại Trường Trung cấp nghề- kyõ thuật số 2( Địa chỉ số 12 Đường Minh Châu, Phường Bình Hòa Tp Biên Hòa Tỉnh Đồng Nai). Ông NĐ_Hữu thực hiện công việc từ ngày 24/8/2009 đền tháng 6/2010, ông NĐ_Hữu tiếp tục đi Thái Lan để bảo vệ Luận án tiến só đến tháng 9/2010 về lại trường. Thời gian về Việt Nam tháng 9/2010, do hoàn cảnh gia đình đơn chiết nên Ông NĐ_Hữu chuyển nơi ở từ Đồng Nai về Sài Gòn và chuẩn bị lập gia đình, nên vào ngày 17/9/2010 Ông NĐ_Hữu có làm đơn xin Giám Đốc Trung Tâm Ngoại ngữ cho xin nghỉ việc làm cán bộ quản lý của Trung tâm để chuyển sang việc giảng dạy (chứ không xin nghỉ việc giảng dạy).
10/2012/LĐ-ST: Tranh chấp về kỷ luật lao động Sơ thẩm Lao động
- 1332
- 36
Tranh chấp về kỷ luật lao động
Ông NĐ_Nguyễn Quý Đinh vào làm việc tại BĐ_Công ty Cổ phần Bao Bì Minh Anh (viết tắt là Công ty) từ ngày 31/7/2008. Đến ngày 01/01/2009, hai bên ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn với công việc là Phó quản đốc, mức lương là 1.120.000 đồng/tháng. Ngày 01/01/2010, Công ty và ông NĐ_Đinh ký kết phụ lục hợp đồng thay đổi mức lương từ 1.120.000 đồng/tháng lên thành 1.911.000 đồng/tháng, các nội dung khác của hợp đồng lao động vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên, trong quá trình làm việc, tiền lương thực lãnh hàng tháng của ông là 10.000.000 đồng (trong đó bao gồm tiền lương là 6.000.000 đồng; các khoản tiền phụ cấp là 4.000.000 đồng), ông luôn hoàn thành nhiệm vụ và không có gì vi phạm. Nhưng đến ngày 01/02/2011, bà Nguyễn Thị Tố Trinh (Trưởng phòng Hành chính Nhân sự Công ty) mời ông lên phòng và thông báo miệng là: Ban Tổng Giám đốc buộc ông thôi việc từ ngày 01/02/2011 và bắt ông phải làm đơn xin nghỉ việc mà không có lý do.
10/2012/LĐ-ST: Tranh chấp về kỷ luật lao động Sơ thẩm Lao động
- 2201
- 64
Tranh chấp về kỷ luật lao động
Tại đơn khởi kiện ngày 10/12/2010 và các lời khai tiếp theo tại Tòa án nhân dân quận X, nguyên đơn là ông NĐ_Lê Thanh Linh trình bày: Từ tháng 10/1991, ông đã ký Hợp đồng lao động với Công ty Petronas Carigali Overseas Sdn Bhd – là bên nước ngoài trong Hợp đồng chia sản phẩm dầu khí lô 01 và 02 thềm lục địa Việt Nam theo giấy phép kinh doanh số 239/GP của Ủy ban nhà nước về hợp tác và đầu tư cấp ngày 10/9/1991. Trong quá trình hoạt động, toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ của bên nước ngoài đã được chuyển nhượng cho bị đơn là BĐ_Công ty TNHH AT Việt Nam (sau đây gọi tắt là Công ty) theo giấy phép số 239/GPĐC2 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp ngày 21/4/2003. Bản thân ông trong những năm làm việc cho Công ty Petronas Carigali Overseas Sdn Bhd với các chức danh khác nhau, ông đã luôn hoàn thành tốt công việc và đã tái ký Hợp đồng lao động với Công ty nhiều lần.