08/2012/ST-LĐ: Tranh chấp về kỷ luật lao động Sơ thẩm Lao động
- 1671
- 30
Tranh chấp về kỷ luật lao động
Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/9/2010 và lời trình bày của ông NĐ_Phạm Thanh Ba thì ngày 28/02/2006 ông vào làm việc tại BĐ_Công ty TNHH Tiên Sơn (từ đây viết tắt là BĐ_Công ty Tiên Sơn) đến ngày 25/7/2008 hai bên ký kết hợp đồng lao động với thời hạn 3 năm tính từ ngày 25/7/2008. Công việc và địa điểm làm việc là làm theo sự phân công của Công ty (khoán việc) với mức lương 1.500.000 đồng/tháng, ngoài ra được Công ty xét cấp phụ cấp điện thoại, phụ cấp xăng xe, ăn trưa và các loại phụ cấp khác căn cứ vào tình hình và điều kiện sản xuất, kinh doanh của công ty tại từng thời điểm. Từ quy định này hàng tháng ông nhận được mức lương từ 2.500.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Trong quá trình làm việc ông luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao, tuy nhiên 17/11/2009 BĐ_Công ty Tiên Sơn đã ra Quyết định thi hành kỷ luật ông bằng hình thức Buộc thôi việc (sa thải) với lý do “Cố ý làm trái trong công việc gây thiệt hại nghiêm trọng về tình hình kinh doanh, lợi ích của Công ty “.
03/2012/ST-LĐ: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
- 451
- 12
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Trong đơn khởi kiện ngày 22/06/2011 của nguyên đơn - ông NĐ_Lê Kim Hoàn thì ông đã ký hợp đồng không thời hạn với BĐ_Công ty TNHH Dịch vụ Lộc Anh( gọi tắt là BĐ_Công ty Lộc Anh) hiệu lực từ ngày 01/10/2010 . Ngày 05/4/2011 ông Nguyễn Tâm Thiện – giám đốc điều hành – thông báo bằng miệng yêu cầu ông nghỉ việc ngay lập tức trong ngày với lý do công ty làm ăn thua lỗ . Công ty hẹn ông ngày 08/4/2011 quay lại công ty để nhận quyết định thôi việc( quyết định chỉ có chữ ký của giám đốc điều hành mà không có dấu công ty). Đến ngày 27/4/2011 thì công ty đã gửi cho ông quyết định về việc chấm dứt hợp đồng sai luật. Theo như quyết định công ty hứa sẽ trả lương cho ông đến ngày 27/4/2011 và bồi thường lao động , tới nay ông vẫn không nhận được gì như công ty đã nói.
281/2014/DS-ST: Tranh chấp quyền sở hữu tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1403
- 12
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/10/2005 và trong các lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn là bà NĐ_Nguyễn Thị Linh và thông qua người đại diện theo ủy quyền Phạm Thị Hồng trình bày: Căn nhà số 12 Lô F (nay mang số 257) VT, Phường 7, Quận X có nguồn gốc của ông Võ Văn Ưu, năm 1974 ông Ưu về quê ở LA sinh sống để lại căn nhà trên cho ông BĐ_Võ Sĩ Luân là 1 trong 7 người con của ông Ưu quản lý. Cũng trong thời gian này ông BĐ_Luân đã bán căn nhà này cho bà Nguyệt bằng giấy tay, năm 1976 bà NĐ_Nguyễn Thị Linh mua lại căn nhà này từ bà Nguyệt cũng bằng giấy tay (hiện giấy tay này đã thất lạc) với giá là 190.000đ.
1398/2014/ DS-ST: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và đòi nhà cho ở nhờ Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 885
- 10
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và đòi lại nhà cho ở nhờ
Theo đơn khởi kiện ngày 08/6/2009, ngày 10/6/2009 và các bản tự khai của nguyên đơn b NĐ_Trần Ngọc Hà có đại diện ủy quyền bà Nguyễn Thị Hồng Yến trình bày: Căn nhà 184/2D LCT, Phường 9, Quận X, Thnh phố HCM (gọi tắt l nh số 184/2D), có nguồn gốc của bà Tiết Thị Tám (chết năm 1969 - khơng có chồng, con). Ngày 16/8/1968 bà Tám đã ký Tờ cho đứt một thửa đất và nhà trên đất có nội dung bà Tám cho cháu ruột là bà Ngô Thị Minh thửa đất theo bằng khoán 368 Sài Gòn – Tân Định cùng toàn bộ nhà cửa có trên đất. Tờ cho đất và nhà ở này có vi chứng số 675/HCX/TT2 ngày 16/8/1968 của Ủy ban hành chính xã TTN, quận HM của chế độ cũ. Ngày 19/8/1997, bà Ngô Thị Minh lập “Tờ di chúc” tại Ủy ban nhân dân xaõ Taân Thôùi Nhì cho riêng con gái là bà NĐ_Trần Ngọc Hà tồn bộ khu đất v nh ở trn đất nu trn, trong đó có căn nhà 184/2D.
363/2014/DS-ST: Đòi lại di sản thừa kế Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1265
- 23
Ông NĐ_Vân bà NĐ_Chi là con của ông Chung Bồi (đã chết, không nhớ năm nào) và bà Nguyễn Thị Ngành (chết năm 1948). Bà Ngành là con của ông Nguyễn Văn Bảy (chết năm 1981) và bà Huỳnh Thị Xi (chết năm 1996). Ông Bảy bà Xi có tất cả 02 người con là bà Ngành và ông Nguyễn Văn Sang (chết năm 2003). Ông Sang (trước năm 1975 ông Sang còn có tên là Nguyễn Văn Ba – gọi là Ba Nhỏ) có tất cả 03 vợ. Người vợ thứ nhất là bà Nguyễn Thị Tư (chết năm 2001), không có con chung, chỉ có 02 người con nuôi là ông LQ_Đỗ Như Vinh (còn có tên là Nguyễn Văn Trọng) và ông BĐ_Nguyễn Trung Thủy. Người vợ thứ hai là bà LQ_Nguyễn Thị Ngân, có 02 người con chung là ông LQ_Nguyễn Văn Tuấn và bà LQ_Nguyễn Thị Bình. Người vợ thứ ba là bà Huỳnh Thị Truyện (chết không nhớ năm nào), có 01 con chung là bà LQ_Huỳnh Thị Hà. Bà LQ_Nguyễn Thị Ngân có tất cả 3 người con là ông LQ_Nguyễn Văn Tuấn, bà LQ_Nguyễn Thị Bình và ông Nguyễn Văn Rớt.