193/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2007
- 44
Bà NĐ_Trương Thị Linh và ông NĐ_Lê Văn Ên trình bày: nguồn gốc phần đất vợ chồng bà đang quản lý sử dụng là do vợ chồng bà mua lại từ năm 1990, trên đất có 1 căn nhà bằng cây. Đến ngày 6-4- 2006, Ủy ban nhân dân huyện AP cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H0084/Q1 cho vợ chồng bà với diện tích 80,9m2. Cũng trong năm 2006, bà cất lại nhà cấp 4 bằng bêtông kiên cố, còn nhà đất của ông BĐ_Chân, bà BĐ_Son có trước khi bà tới đây sinh sống, giáp ranh liền kề với nhà đất của bà, giữa hai ranh đất có 1 cây dừa. Vào năm 2005, vợ chồng ông BĐ_Chân, bà BĐ_Son có hỏi bà đốn cây dừa để xây dựng nhà thành nhà một trệt, một lầu (phần lầu băng cây). Sau khi xây dựng nhà xong, thì vợ chồng ông BĐ_Chân tiếp tục lắp đặt 1 giàn phơi quần áo và 1 giàn nóng của máy lạnh, khi đó bà có ngăn cản nhưng ông BĐ_Chân vẫn tiếp tục xây dựng, chính vì vậy đã chiếm khoảng không gian nằm trên đất của vợ chồng bà đã được cấp giấy đỏ, làm cho bà không thể sử dụng khoảng không bên trên.
365/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1022
- 23
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Ngày 12-8-2001, vợ chồng ông NĐ_Nguyễn Quang Tà, bà LQ_Lê Thị Ngọc Ba có chuyển nhượng cho bà BĐ_Nguyễn Thị Kiều phần đất thổ vườn tại số 2C63 ấp 2, xã PVH, huyện BC có diện tích 1.000 m2, thuộc thửa số 77, tờ bản đồ số 7, xã PVH, huyện BC, thành phố HCM, với giá 120.000.000 đồng tương đương 25 lượng vàng SJC. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng, bà BĐ_Kiều đã đặt cọc 20.000.000 đồng, sau đó ông NĐ_Tà có mượn thêm 5.000.000 đồng. Tổng cộng ông NĐ_Tà nhận của bà laf 25.000.000 đồng. Vào thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng thì phần đất trên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. đến ngày 21-12-2001, vợ chồng ông NĐ_Tà, bà LQ_Ba được cấp giấp chứng nhận quyền sơ hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở sô 403/2001 cho căn nhà mang số 2C63 ấp 2, xã PVH, huyện BC và diện tích 211,8m2.
61/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 838
- 10
Trước khi ông Duyên chết có để lại 02 tờ di chúc: - Di chúc ngày 02-4-1960 có nội dung: Cho bà Hà Thị Hường (vợ kế của ông Duyên) 01 căn nhà và cho ông Vương Phước Trung 02 căn nhà trong số 03 căn nhà tại số 02 PĐ, NT hiện nay. - Di chúc ngày 10-4-1960 có nội dung: Cho ông Vương Phước Trung toàn bộ nhà và đất tại 02A Lê Hổng Phong, PH, NT. Sau khi ông Duyên chết cha tôi là ông Vương Phước Trung quản lý toàn bộ nhà đất tại số 02A LHP, NT. Còn 03 căn nhà 02A, 02B, 02C tại đường PĐ, NT, ông Trung đứng tên cho thuê. Năm 1983 ông Trung đã làm giấy ủy quyền cho ông Thuận đi kiện đòi lại căn nhà của chủ thuê. Lúc này ông Thuận đã biết ông Duyên lập di chúc cho cha tôi là ông Trung 02 căn nhà và cho bà Hà Thị Hường 01 căn nên cha tôi (ông Trung) mới phải làm giấy ủy quyền cho ông Thuận đi đòi lại 03 căn nhà tại số 02 đường PĐ, NT. Vì tình cảm anh em nên sau khi ông Thuận đòi được 03 căn nhà tại số 02 PĐ, NT, cha tôi giao cho ông Thuận quản lý hết cả 03 căn nhà này.
358/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 794
- 16
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn bà NĐ_Võ Thị B trình bày: Ngày 10-5-2001 vợ chồng bà có ký biên bản thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng các thửa đất số 113,114, 155 tờ bản đồ số 8 xã PX, huyện NB cho BĐ_Công ty C, diện tích 4218m2 là 160.284.000 đồng, theo bà thì việc chuyển nhượng trên là do BĐ_Công ty C áp đặt thông qua Ủy ban nhân dân xã PX đã lừa dối vợ chồng Bà NĐ_Bằng việc thông báo là các thửa đất trên bị quy hoạch đền bù, trong khi đó những phần đất kế bên đất của Bà NĐ_BĐ_Công ty C lại mua với giá cao hơn là 300.000 đồng/m2. Nay bà yêu cầu BĐ_Công ty phải trả đúng giá với các hộ liền kề là 300.000 đồng, như vậy BĐ_Công ty phải trả thêm cho bà số tiền tổng cộng là 1.105.116.000 đồng.
798/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1155
- 31
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Theo đơn khởi kiện ngày 07/3/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trần Thị Thủy trình bày: vào ngày 01/5/2006 bà Nguyên có vay của bà số tiền 300.000.000 đồng, lãi suất là 1,5% một tháng. Bà Nguyên có làm biên nhận nợ và có thế chấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD716199 và AD967680 mang tên Nguyễn Quốc Việt. Ngày 18/12/2006 do chưa trả nợ nên bà Nguyên viết một giấy cam kết hẹn ngày 17/01/2007 sẽ trả hết nợ và lãi cho bà. Nhưng đến nay bà Nguyên không thực hiện cam kết trả nợ nên bà yêu cầu bà Nguyên cùng ông Việt liên đới trả số tiền 300.000.000đ vốn và tiền lãi tính theo quy định của pháp luật là 72.967.000đ.