55/2014/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 1664
- 50
Theo đơn khởi kiện ngày 16/12/2013 nguyên đơn NĐ_Bảo hiểm xã hội Thành phố HCM khởi kiện BĐ_Công ty cổ phần H77, yêu cầu BĐ_Công ty cổ phần H77 thanh toán tiền Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm y tế (BHYT), Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) và tiền lãi chậm nộp tạm tính đến tháng 11/2013 là là 740.272.189 (Bảy trăm bốn mươi triệu hai trăm bảy mươi hai ngàn một trăm tám mươi chín) đồng.
25/2014/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 2857
- 121
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Tại đơn khởi kiện ngày 23/6/2013, bản khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Linh trình bày: Ngày 26/11/1999 ông và BĐ_Ngân hàng TM-CP Thanh Ân (gọi tắt là BĐ_VTA) ký hợp động lao động không xác định thời hạn. Ngày 03/6/2013 BĐ_VTA ban hành thông báo số 3364 và Quyết định số 4759 ngày 24/7/2013 về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông. Việc BĐ_VTA chấm dứt hợp đồng với ông đã vi phạm nguyên tắc và trình tự xử lý: Không thông báo bằng văn bản cho ông, không có mặt đại diện công đoàn, không chứng minh được lỗi của ông. Sau khi nhận được thông báo của BĐ_VTA chấm dứt hợp đồng lao động với ông, ông đã gửi đơn khiếu nại đến BĐ_VTA 3 lần. Ngày 13/11/2013 BĐ_VTA có thông báo nhận ông trở lại làm việc.
05/2014/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 3466
- 132
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Ông vào làm việc tại BĐ_Công ty cổ phần Bảo hiểm Thanh Quân từ tháng 3/2010 đến ngày 15/5/2010 ký hợp đồng lao động thời hạn 01 năm. Sau khi hết hạn hợp đồng, ngày 15/5/2011 hai bên ký tiếp hợp đồng lao động thời hạn 03 năm, mức lương lúc đầu là 4.000.000 đồng/tháng đến tháng 8/2011 tăng lên 6.000.000 đồng/tháng. Ngày 09/8/2012, Công ty ra quyết định số 534/2012/QĐ-VASS/TGĐ chấm dứt hợp đồng lao động với ông kể từ ngày 10/8/2012, ông nhận thấy việc Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông là trái pháp luật nên ông khởi kiện yêu cầu tòa án buộc BĐ_Công ty cổ phần Bảo hiểm Thanh Quân phải chi trả tiền lương, phụ cấp, tiền cơm trưa, tiền thưởng lễ cho ông từ khi bị mất việc, cộng thêm 02 tháng tiền lương là 12.000.000 đồng. Công ty phải bồi thường 120.000.000 đồng nếu muốn chấm dứt hợp đồng trước hạn và trả tiền phép năm 2012; Công ty phải chi trả lương đầy đủ cho ông và tiền lãi chậm trả theo lãi suất 150%/năm;
27/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 2328
- 127
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Ông thử việc tại BĐ_Công ty cổ phần TyKe từ ngày 01/11/2011 và ký hợp đồng lao động vào ngày 01/02/2012, thời hạn hợp đồng từ ngày 01/02/2012 đến ngày 31/3/2013, vị trí công việc là giám đốc tài chính, mức lương hàng tháng là 42.000.000 đồng. Ngày 31/7/2012 Phòng hành chính nhân sự thông báo công ty quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông và yêu cầu ông bàn giao công việc cho người mới. Ngày 18/8/2012 ông nhận được thông báo số 01/TBCDHĐLĐ-TYKE do giám đốc BĐ_Công ty cổ phần TyKe ký ngày 31/7/2012 về việc chấm dứt hợp đồng lao động số 0102/SG/2012 ký ngày 01/02/2012 giữa công ty TYKE và ông theo Điểm a, Khoản 1 Điều 38 Bộ luật Lao động và kể từ ngày này ông chấm dứt làm việc tại công ty TYKE. Lý do công ty đưa ra trong thông báo là do ông “thường xuyên không hoàn thành công việc và mô tả công việc do cấp trên phân giao, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chung của công ty và phòng Tài chính kế toán”.
16/2013/LĐ-ST Sơ thẩm Lao động
- 1521
- 32
Theo đơn khởi kiện ngày 07/8/2012 và các lời khai trong qúa trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn do bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh đại diện trình bày: BĐ_Công ty TNHH trung tâm thương mại và căn hộ Phương Anh (gọi tắt là BĐ_Công ty căn hộ Phương Anh) liên tục nợ BHXH, BHYT kéo dài, tổng số tiền BHXH phát sinh nợ đọng đến tháng 4 năm 2013 là 375.585.259 đồng. NĐ_Bảo hiểm xã hội Thành phố HCM nhiều lần nhắc nhở, nhưng BĐ_Công ty căn hộ Phương Anh không khắc phục, không nộp tiền nợ bảo hiểm vào quỹ bảo hiểm xã hội. Trong khi đó hàng tháng vẫn khấu trừ và chiếm dụng 9,5% BHXH, BHYT từ tiền lương của người lao động. Đây là việc vi phạm nghiêm trọng về quyền lợi hợp pháp của người lao động, gây khó khăn cho việc giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.