cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

980/2014/DS - ST: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 7325
  • 159

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

25-08-2014
TAND cấp huyện

Nguyên đơn trình bày: Ngày 08/10/2004 bà NĐ_Trương Ngọc Thịnh và ông BĐ_Lê Quang Vinh cùng nhau thỏa thuận mua bán căn nhà và đất số 78/4N BL, phường 13, quận BT, Thành phố HCM trả góp có sự chứng kiến của ông LQ_Erik Tonye, nội dung thỏa thuận như sau: - Phần đất có diện tích 90 m2 , thực tế chỉ có 89,9 m2 - Phần xây dựng nhà thì được tiến hành thi công theo bản vẽ thiết kế xây dựng. - Giá trị chuyển nhượng là 107.000 USD (được quy đổi ra Việt Nam đồng khi thanh toán tương đương 1.685.357.000 đồng, 1 USD = 15.751.000 đồng ) - Ông BĐ_Vinh có trách nhiệm làm thủ tục sang tên cho bà NĐ_Thịnh.


265/2014/DSST: Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 610
  • 2

Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung

14-08-2014
TAND cấp huyện

Căn nhà số 715B HG, Phường 11, Quận X nguồn gốc của ông Trần Long và bà Triều Thị Múi sở hữu. Năm 2009 ông Long và bà Múi tặng cho 3 người con là ông NĐ_Trần Minh Quân, LQ_Trần Minh Nga và BĐ_Trần Minh Đan. Năm 2009 ba anh em của ông NĐ_Quân làm thủ tục cấp giấy chứng nhận QSHNỞ và QSDĐỞ do 3 người đứng tên, đồng thời 3 anh em có ký giấy thỏa thuận nếu sau nầy mà nhà có bán chia hoặc chuyển nhượng cho ai thì mỗi người được hưởng 1/3 giá trị căn nhà. Năm 2012, 03 anh em làm lại thủ tục mỗi người đứng tên giấy chứng nhận QSHNỞ và QSDĐỞ, nhưng sở hữu chung 01 căn nhà số 715B HG, Phường 11, Quận X và ở chung căn nhà nầy. Năm 2012 ông Long chết, năm 2013 bà Múi chết.


238/2014/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 480
  • 8

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

31-07-2014
TAND cấp huyện

Do là chỗ quen biết nên vào ngày 29/9/2009 ông có cho BĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thuận An do ông Đỗ Giai làm giám đốc vay số tiền 490.000.000 đồng, vay không có lãi, BĐ_Công ty Thuận An vay tiền với mục đích để làm gì ông không biết. Trước đó vào khoảng đầu tháng 9/2009 ông cũng đã cho ông Phong là người quen của ông Giai vay số tiền 60.000.000 đồng, ông Giai cam kết sẽ đứng ra nhận lãnh phần trả nợ thay cho ông Phong. Chính vì vậy ông Giai đã lập giấy biên nhận, ký tên và đóng dấu công ty xác nhận có nợ ông tổng số tiền 550.000.000 đồng, ông Giai cam kết khi tàu chở cát Taya 311 của BĐ_Công ty Thuận An khởi hành được năm ngày thì bảy ngày sau (tức là 12 ngày kể từ ngày tàu Taya 311 khởi hành) BĐ_Công ty Thuận An sẽ trả cho ông số tiền 210.000.000 đồng, số tiền 340.000.000 đồng còn lại sẽ trả trong thời gian sáu mươi ngày. Tuy nhiên khi đến hạn, BĐ_Công ty Thuận An vẫn không thanh toán cho ông một khoản tiền nào.


854/2014/HNGĐ-ST: Ly hôn Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 531
  • 9

Ly hôn

29-07-2014
TAND cấp huyện

Theo nguyên đơn ông NĐ_Trần Trọng Khoa trình bày: Vào khoảng giữa năm 2005, do bạn bè giới thiệu ông và bà BĐ_Acosta Karina Hary có quen biết với nhau. Sau thời gian tìm hiểu, ông và bà BĐ_Acosta Karina Hary có tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp giấy chứng nhận kết hôn số 1993, quyển số 7, ngày 19/6/2006. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống với nhau một thời gian ngắn thì bà BĐ_Acosta Karina Hary trở về Hoa Kỳ để tiếp tục làm việc. Thời gian đầu, hai bên vẫn thường xuyên liên lạc với nhau qua điện thoại, tuy nhiên, do sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa dẫn đến bất đồng quan điểm, tình cảm rạn nứt. Hiện nay, ông nhận thấy không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên về quan hệ vợ chồng ông xin được ly hôn với bà BĐ_Acosta Karina Hary.


849/2014/DS-ST: Tranh chấp quyền sở hữu nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 497
  • 7

Tranh chấp quyền sở hữu nhà

28-07-2014
TAND cấp huyện

Đại diện của nguyên đơn trình bày: Nguồn gốc căn nhà 42/1A Lò Siêu (số mới là 45/27/2 HHT), Phường 16, Quận X là của bà NĐ_Khưu Ngọc Chân mua lại của ông Hồ Vĩnh Châu bằng giấy tay. Vào cuối năm 1969, thấy hoàn cảnh của ông Trịnh Văn Thành (ông Thành gọi bà NĐ_Chân là thím) khó khăn về chổ ở nên cho ông Thành vào ở nhờ. Sau khi ông Thành chết thì vợ và các con của ông Thành tiếp tục ở trong căn nhà trên.