24/2007/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 431
- 5
Năm 1976 cố Nguyễn Thị Dành (là mẹ cụ Nguyễn Thị Hai Hoanh và là bà ngoại của ông) cho ông 700m2 đất tại khu phố ĐN, thị trấn LT, huyện TA, tỉnh BD. Ông đã dựng nhà trên đất rồi đón cụ Hai Hoanh về sống chung. Năm 1977 ông mua của ông Lưu Văn Tư diện tích đất có vị trí liền kề nhà và đất nêu trên, nhung để cụ Hai Hoanh đứng tên trên giấy tờ mua bán. Sau khi mua đất, ông và cụ Hai Hoanh cùng trực tiếp quản lý và sử dụng đất. Năm 1985 cụ Hai Hoanh đúng tên đăng ký, kê khai toàn bộ diện tích đất nêu trên. Năm 1987 ông cùng vợ con chuyển ra sống tại khu phố Chợ, thị trấn LT và cụ Hai Hoanh cũng chuyển đi nơi khác sống cùng cố Dành, nên toàn bộ nhà và đất tại khu phố ĐN, thị trấn LT được giao cho ông BĐ_Nguyễn Văn Trung (là con cụ Hai Hoanh và là em một của ông) quản lý, sử dụng đến nay. Ngày 08/12/1988 cụ Hai Hoanh chết nhưng không để lại di chúc.
18/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1009
- 5
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Vào tháng 5/2006, ông NĐ_Trần Văn Sang và bà NĐ_Lê Thị Thư có thỏa thuận làm giấy giao kèo vay tiền, thế chấp quyền sử dụng đất nền và bản vẽ cho vợ chồng ông BĐ_Lê Văn Phước và bà BĐ_Nguyễn Thị Hà để họ vay hộ 100.000.000 đồng của chị gái bà BĐ_Hà là cô Gái nhỏ (Nguyễn Thị Hường) với lãi suất 2%/tháng, trong thời hạn 1 năm. Ngày 10/5/2006, bà Thị viết giấy giao kèo, hai vợ chồng cùng ký tên và giao cho bà BĐ_Hà, ông BĐ_Phước cùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U371762 do anh NĐ_Sang đứng tên, để bà BĐ_Hà đi vay tiền hộ khi nào có tiền thì hai bên sẽ làm giấy giao tiền và nhận tiền, làm công chứng tại xã. Việc viết giấy giao kèo chỉ có vợ chồng anh NĐ_Sang, bà NĐ_Thư và vợ chồng ông BĐ_Phước, bà BĐ_Hà biết không có ai làm chứng. Do chưa nhận được tiền nên anh NĐ_Sang, bà NĐ_Thư khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Phước, bà BĐ_Hà trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bản vẽ nhà cho anh NĐ_Sang, bà NĐ_Thư.
200/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 766
- 5
Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Thực hiện hợp đồng: Ngày 16/8/1996 ông BĐ_Lân đặt cọc 05 cây vàng SJC. Ngày 15/9/1996 ông BĐ_Lân thanh toán tiền đợt 2 là 24 cây vàng SJC (5.195.000 đ/cây) và 150.000.000 đồng. Sau khi thanh toán tiền đợt 2 thì ông BĐ_Lân không tiếp tục thực hiện hợp đồng và cũng không liên hệ với bà NĐ_Riêng, cuối năm 1998 -1999 bà NĐ_Riêng đã tìm địa chỉ và được biết ông BĐ_Lân đã đi nước ngoài.
08/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 363
- 12
Ngày 01/12/2000, chị NĐ_Võ Thị Như có “Đơn yêu cầu xét xử về quyền sử dụng đất” và bà NĐ_Võ Thị Bình (ủy quyền cho chị NĐ_Như) yêu cầu Tòa án buộc bà BĐ_Điệp trả lại diện tích đất mà bà đang sử dụng và nêu chị là người được cụ Luông ủy quyền và cho rằng diện tích đất có tranh chấp là của cụ Luông, còn bà BĐ_Nhiên chỉ là người ở nhờ.
93/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 944
- 17
Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/4/2001 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông NĐ_Huỳnh Văn Tân trình bày: Năm 1999, được biết Ban dự án hỗ trợ y tế Quốc gia tỉnh BĐ có tổ chức đấu thầu thi công công trình Trung tâm y tế huyện AN nên ông đã làm đầy đủ các thủ tục tham gia đấu thầu. Do không có tư cách pháp nhân nên ông đã nhờ BĐ_Công ty TNHH Xây dựng Đình Phong (sau đây gọi tắt là BĐ_Công ty Đình Phong) có tư cách pháp nhân đứng ra đấu thầu và nhận thầu công trình sau đó giao lại cho ông thi công. Theo thỏa thuận ông là người trực tiếp thi công công trình, tự thuê nhân công, tự bỏ vốn và chịu trách nhiệm đối với chất lượng công trình… Khi chủ đầu tư chuyển tiền về tài khoản của Công ty thì ông phải nộp cho Công ty các khoản gồm (thuế GTGT: 10%; chi phí điều hành và thuế thu nhập doanh nghiệp: 3% giá trị công trình), số tiền còn lại Công ty sẽ thanh toán cho ông thông qua các phiếu chi của Công ty.