264/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 636
- 9
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất
Từ năm 2006 giữa bà NĐ_Như với vợ chồng anh BĐ_Chiến phát sinh mâu thuẫn. Ngày 20/9/2008 bà NĐ_Nguyễn Thị Như đã khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh BĐ_Chiến phải tháo dỡ nhà tắm, tường rào và tiệm uốn tóc để trả lại nhà đất cho bà NĐ_Như. Anh BĐ_Nguyễn Trung Chiến không đồng ý trả lại nhà và đất cho bà NĐ_Như, anh BĐ_Chiến cho rằng anh sống với cụ Thảnh từ nhỏ, có chung hộ khẩu với cụ Thảnh, cụ Thảnh chết để lại nhà và đất cho anh.
188/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 505
- 20
Theo bà NĐ_Siết trình bày: Năm 1971, nhà nước làm mương Đông Mô nên lấy vào 2/3 đất thổ cư của cụ Tuyết và cụ Hảo để làm mương, ủy ban nhân dân xã SĐ, thị xã ST có cấp đền bù cho cụ Hảo thửa đất khác, diện tích là 909m2. Cụ Hảo đã phân chia luôn cho bà BĐ_Thụ sử dụng 517m2, còn ông Chính (chồng của bà) được chia 393m2. Các người con gái của cụ Hảo đã chuyển nguyên vật liệu của ngôi nhà cũ về làm một gian 2 chái trên phần đất chia cho ông Chinh để cho cụ Hảo ở, thời gian này ông Chinh công tác tại BV nên thỉnh thoảng mới về thăm cụ Hảo. Năm 1975, vợ chồng bà đã tháo dỡ nhà và xây lại 3 gian nhà bằng tường đá ong, lợp ra để cụ Hảo ở. Năm 1985, ông Chinh về ở cùng cụ Hảo, đến năm 1987 ông Chinh ốm nên về BV với vợ con thì cụ Hảo chết. Sau khi cụ Hảo chết một thời gian, ông Chinh đã bán nguyên vật liệu nhà cho người khác dỡ đi, trên đất còn lại 3 cây mít, 2 cây trứng gà, 2 dõng chè tươi, ông Chinh gửi bà BĐ_Thụ trông nom hộ.
188/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 515
- 11
Theo bà NĐ_Siết trình bày: Năm 1971, nhà nước làm mương Đông Mô nên lấy vào 2/3 đất thổ cư của cụ Tuyết và cụ Hảo để làm mương, ủy ban nhân dân xã SĐ, thị xã ST có cấp đền bù cho cụ Hảo thửa đất khác, diện tích là 909m2. Cụ Hảo đã phân chia luôn cho bà BĐ_Thụ sử dụng 517m2, còn ông Chính (chồng của bà) được chia 393m2. Các người con gái của cụ Hảo đã chuyển nguyên vật liệu của ngôi nhà cũ về làm một gian 2 chái trên phần đất chia cho ông Chinh để cho cụ Hảo ở, thời gian này ông Chinh công tác tại BV nên thỉnh thoảng mới về thăm cụ Hảo. Năm 1975, vợ chồng bà đã tháo dỡ nhà và xây lại 3 gian nhà bằng tường đá ong, lợp ra để cụ Hảo ở. Năm 1985, ông Chinh về ở cùng cụ Hảo, đến năm 1987 ông Chinh ốm nên về BV với vợ con thì cụ Hảo chết. Sau khi cụ Hảo chết một thời gian, ông Chinh đã bán nguyên vật liệu nhà cho người khác dỡ đi, trên đất còn lại 3 cây mít, 2 cây trứng gà, 2 dõng chè tươi, ông Chinh gửi bà BĐ_Thụ trông nom hộ.
21/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1680
- 44
Cụ Sâm chết tháng 9/1979; cụ Liễn chết năm 1999. Di sản của cụ Sâm và cụ Liễn gồm 1/2 ngôi nhà ba gian lợp ngói, sân gạch, bể nước trên diện tích 526m2 đất tại thôn VT, xã MK, huyện TL, thành phố HN (1/2 ngôi nhà là phần đóng góp xây dựng của vợ chồng ông Ky và bà BĐ_Tài). Di sản do bà BĐ_Nguyễn Thị Tài (vợ ông Ky) quản lý, sử dụng. Ngoài tài sản nêu trên, cụ Sâm và cụ Liễn còn để lại 1/2 ao có diện tích 436m2 tại xóm Cầu, thôn VT, xã MK, huyện TL, thành phố HN; thửa đất ao này do ông LQ_Thọ và bà LQ_Tiêm quản lý, san lấp làm nhà và trồng cây.
21/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1220
- 23
Cụ Sâm chết tháng 9/1979; cụ Liễn chết năm 1999. Di sản của cụ Sâm và cụ Liễn gồm 1/2 ngôi nhà ba gian lợp ngói, sân gạch, bể nước trên diện tích 526m2 đất tại thôn VT, xã MK, huyện TL, thành phố HN (1/2 ngôi nhà là phần đóng góp xây dựng của vợ chồng ông Ky và bà BĐ_Tài). Di sản do bà BĐ_Nguyễn Thị Tài (vợ ông Ky) quản lý, sử dụng. Ngoài tài sản nêu trên, cụ Sâm và cụ Liễn còn để lại 1/2 ao có diện tích 436m2 tại xóm Cầu, thôn VT, xã MK, huyện TL, thành phố HN; thửa đất ao này do ông LQ_Thọ và bà LQ_Tiêm quản lý, san lấp làm nhà và trồng cây.