139/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1737
- 24
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Năm 2004, cụ Đức và cụ Mỹ có đơn yêu cầu hủy bỏ Giấy phép ủy quyền số 224/GP-7 nói trên, nhưng chưa được giải quyết. Năm 2006, cụ Mỹ và cụ Đức chết. Ngày 12/10/2006, các con của hai cụ lập văn bản ủy quyền cho bà BĐ_Võ Thị Ngọc Lâm định đoạt tất cả những giấy tờ liên quan đến nhà đất 334/3 PVT. Hiện nay, trên đất tranh chấp ngoài căn nhà do cụ Đức xây dựng, còn có nhà của vợ chồng ông LQ_Trực, nhà của cụ Dung (là em của cụ Đức) và một số căn nhà do ông BĐ_Trung xây dựng. Nguyên đơn đồng ý để cụ Dung và vợ chồng ông LQ_Trực tiếp tục sử dụng phần đất mà cụ Dung và ông LQ_Trực đang quản lý, nhà đất còn lại yêu cầu bà BĐ_Lâm và gia đình ông BĐ_Trung trả lại. Nguyên đơn đồng ý thanh toán tiền công sức gìn giữ nhà, đất cho ông BĐ_Trung là 3.000.000.000 đồng.
113/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1390
- 50
Cụ Nguyên Mô và cụ Bùi Thị Chảnh có 06 người con gồm ông Nguyễn Hai (chết năm 2007, có vợ là bà BĐ_Phan Thị Cúc và 05 người con), ông LQ_Nguyễn Bảo, bà LQ_Nguyễn Thị Tú, ông NĐ_Nguyễn Văn Xinh, bà LQ_Nguyễn Thị Bình, bà LQ_Nguyễn Thị Linh. Hai cụ có căn nhà từ đường trên khoảng 3000m2 đất thửa số 722 tại tổ 7, thôn Xuân Lạc 2, xã VN, thành phố NT, tỉnh KH. Ngoài ra, hai cụ còn có thửa đất màu (liền kề thửa 722), diện tích khoảng 1500m2. Năm 1973, cụ Chảnh chết, không để lại di chúc. Năm 1993, cụ Mô chết cũng không để lại di chúc. Sau khi cụ Mô chết, vợ chồng ông Hai, bà BĐ_Cúc tiếp tục quản lý tài sản nhà và đất. Năm 2002, ông Hai bị ốm không có tiền chữa bệnh nên các anh em thống nhất thỏa thuận chia thửa đất màu; theo đó, ông và ông LQ_Bảo, mỗi người được chia 120m2 đất, bà LQ_Tú, bà LQ_Bình và bà LQ_Linh mỗi người được chia 80m2 đất, phần đất còn lại ông Hai bán lấy tiển chữa bệnh. Năm 2004, các anh em ông góp tiền sửa chữa ngôi nhà từ đường. Năm 2007, ông Hai chết. Sau đó, bà BĐ_Cúc chuyển nhượng toàn bộ đất cho con là anh LQ_Nguyễn Nam và phân chia đất cho các con, không có sự đồng ý của các anh em ông.
367/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 535
- 29
Khi còn sống bà NĐ_Trương Hồng xác định ông BĐ_Trần Chí Hào là con của ông Trần Vinh Hoa và bà Nguyễn Thị Hạnh (cả hai đã chết), ông BĐ_Hào có người chị là bà Nguyễn Thị Bé và anh là ông Trần Quang Vinh hiện đang sinh sống tại 122 MTT, khóm 3, phường 9, thành phổ ST, tỉnh ST. Ông Đàm Phước Toàn căn cứ vào việc bà NĐ_Trương Hồng là người thừa kế theo pháp luật của bà Trương Tuyết Anh, ông Toàn là người duy nhất thừa kế, kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà NĐ_Trương Hồng theo di chúc được hưởng di sản là căn nhà số 511 THĐ, phường 14, quận Y, thành phố HCM. Do đó, ông Toàn yêu cầu buộc gia đình ông BĐ_Trần Chí Hào phải trả lại căn nhà này cho ông Toàn và ông Toàn được quyền liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để lập thủ tục thừa kế và sở hữu căn nhà này. Ông Toàn tự nguyện hỗ trợ cho gia đình ông BĐ_Hào 100.000.000 đồng tiền chi phí di dời đi nơi khác. Ông Toàn yêu cầu tiếp tục duy trì việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quyết định số 30/2007/QĐ-BPKCTT ngày 01/3/2007 của Tòa án nhân dân quận Y, tự nguyện chịu chi phí định giá nhà.
367/2013/DS-GĐT: Đòi lại nhà cho ở nhờ Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1250
- 35
Khi còn sống bà NĐ_Trương Hồng xác định ông BĐ_Trần Chí Hào là con của ông Trần Vinh Hoa và bà Nguyễn Thị Hạnh (cả hai đã chết), ông BĐ_Hào có người chị là bà Nguyễn Thị Bé và anh là ông Trần Quang Vinh hiện đang sinh sống tại 122 MTT, khóm 3, phường 9, thành phổ ST, tỉnh ST. Ông Đàm Phước Toàn căn cứ vào việc bà NĐ_Trương Hồng là người thừa kế theo pháp luật của bà Trương Tuyết Anh, ông Toàn là người duy nhất thừa kế, kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà NĐ_Trương Hồng theo di chúc được hưởng di sản là căn nhà số 511 THĐ, phường 14, quận Y, thành phố HCM. Do đó, ông Toàn yêu cầu buộc gia đình ông BĐ_Trần Chí Hào phải trả lại căn nhà này cho ông Toàn và ông Toàn được quyền liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để lập thủ tục thừa kế và sở hữu căn nhà này. Ông Toàn tự nguyện hỗ trợ cho gia đình ông BĐ_Hào 100.000.000 đồng tiền chi phí di dời đi nơi khác. Ông Toàn yêu cầu tiếp tục duy trì việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quyết định số 30/2007/QĐ-BPKCTT ngày 01/3/2007 của Tòa án nhân dân quận Y, tự nguyện chịu chi phí định giá nhà.
36/2010/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2817
- 110
Đòi lại tiền cọc thực hiện hợp đồng mua bán nhà
Ngày 20/9/2007 qua sự giới thiệu của ông Thang Lưu Hồng và bà Nguyễn Thị Sâm thì ông có đến nhà 222 HTP, phường TTT, Quận Z, thành phố HCM để xem nhà. Được biết bà BĐ_Hoa bán căn nhà 222 HTP cấu trúc vách tường, mái tôn, phía sau có gác gỗ, diện tích 6,5m x 38m = 247m2 với giá 7.100.000.000đ (bảy tỷ một trăm triệu đồng) tương đương 25.000.000đ/m2, theo bà BĐ_Hoa trình bày nhà có giấy tờ đầy đủ. Ngày 22/9/2007 ông NĐ_Ngà đặt cọc 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng), ngày 23/9/2007 đặt cọc tiếp 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng), tổng số tiền đặt cọc đã đưa là 600.000.000đ (sáu trăm triệu đồng) hai bên có ký “Giấy đặt cọc bán nhà” vào ngày 22/9/2007. Sau khi đặt cọc ông có yêu cầu bà BĐ_Hoa đưa giấy tờ nhà cho ông xem và bà BĐ_Hoa có photo cho ông 01 bản giấy chủ quyền nhà, do có việc bận nên ông về ngay chưa xem kỹ nội dung giấy chủ quyền.