139/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1740
- 24
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Năm 2004, cụ Đức và cụ Mỹ có đơn yêu cầu hủy bỏ Giấy phép ủy quyền số 224/GP-7 nói trên, nhưng chưa được giải quyết. Năm 2006, cụ Mỹ và cụ Đức chết. Ngày 12/10/2006, các con của hai cụ lập văn bản ủy quyền cho bà BĐ_Võ Thị Ngọc Lâm định đoạt tất cả những giấy tờ liên quan đến nhà đất 334/3 PVT. Hiện nay, trên đất tranh chấp ngoài căn nhà do cụ Đức xây dựng, còn có nhà của vợ chồng ông LQ_Trực, nhà của cụ Dung (là em của cụ Đức) và một số căn nhà do ông BĐ_Trung xây dựng. Nguyên đơn đồng ý để cụ Dung và vợ chồng ông LQ_Trực tiếp tục sử dụng phần đất mà cụ Dung và ông LQ_Trực đang quản lý, nhà đất còn lại yêu cầu bà BĐ_Lâm và gia đình ông BĐ_Trung trả lại. Nguyên đơn đồng ý thanh toán tiền công sức gìn giữ nhà, đất cho ông BĐ_Trung là 3.000.000.000 đồng.
132/2013/DS-GĐT: Đòi lại nhà cho ở nhờ Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1467
- 41
Tại đơn khởi kiện ngày 10/11/2004 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà NĐ_Võ Thị Loan, ông NĐ_Phạm Thành Cần trình bày: Căn nhà 129 TTV, phường 11, quận Y trên 158m2 đất do ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan mua của cụ LQ_Châu Kỉnh Sang với giá 50 lượng vàng theo hợp đồng mua bán ngày 4/12/2001. Trước khi bán căn nhà trên, cụ LQ_Sang có báo cho ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan biết rõ tình trạng nhà có 03 hộ gồm: cụ BĐ_Trương Mai, ông BĐ_Ô Bỉnh Thứ và bà Ô Huê Hưng đang ở nhờ tại nhà. Do đó, khi mua nhà, ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan phải thương lượng với họ hoặc nhờ Tòa án giải quyết thì mới được nhận nhà. Ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan đồng ý mua và có đến nhà 129 TTV gặp cụ BĐ_Mai, bà Hưng thông báo về việc ông, bà có ý định mua căn nhà này; cụ BĐ_Mai và bà Hưng không có ý kiến gì. Sau đó, ông NĐ_Cần, bà NĐ_Loan tiến hành hợp đồng mua bán nhà với cụ LQ_Sang.
128/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 322
- 8
Vợ chồng cụ Võ Văn Chợ, cụ Lại Thị Tư có 6 con chung là bà (NĐ_Võ Thị Phụng), bà LQ_Võ Thị Mai, bà LQ_Võ Thị Hoa, bà LQ_Võ Thị Linh, ông LQ_Võ Văn Định và ông Võ Văn Hùng (chết năm 1995, có vợ là bà Dương Kim Dung và 01 con là LQ_Võ Hoàng Hảo). Ngày 06/10/1966, cụ Tư chết không để lại di chúc. Ngày 30/10/1968, cụ Chợ kết hôn với cụ BĐ_Trần Thị Bình (vợ kế) và có 3 con chung là bà LQ_Võ Thị Vi, ông LQ_Võ Văn Thông, ông LQ_Võ Văn Phục. Ngoài ra, cụ BĐ_Bình có 01 người con riêng là ông LQ_Võ Ngọc Huy. Về nhà trên khuôn viên 290 m2 đất tại 15 đường DTQ, khu phố 4, phường AL, quận BT, thành phố HCM gồm hai phần: Phần nhà đất phía trước diện tích 128m2: Khoảng tháng 2/1966 (có lúc bà NĐ_Phụng khai năm 1967), cụ Tư và cụ Chợ mua thửa đất diện tích 8m X 16m =128m2 tại địa chỉ cũ là bên trái ấp Tân Sinh III, Liên Gia 82/62 xã BTĐ, quận BC, tỉnh GĐ. Ngày 04/02/1967, cụ Chợ được chính quyền chế độ cũ cấp “Giấy phép xây Cất một căn nhà bằng vật liệu nhẹ” trên lô đất số 55, tờ 4, diện tích 64m2 tại địa chỉ nói trên.
123/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1184
- 47
Ngày 10/5/1991, ông BĐ_Lâm được ủy ban nhân dân thành phố NT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2000, ủy ban nhân dân thành phố NT cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông BĐ_Lâm, trong giấy ghi cấp cho hộ ông BĐ_Lê Văn Lâm, bà LQ_Trần Thị Thuý (vợ của ông BĐ_Lâm). Năm 2004, vợ chồng ông BĐ_Lâm tự ý chia cho vợ chồng anh LQ_Lê Trần Anh Thứ (con trai của ông BĐ_Lâm) quyền sử dụng 300 m2 đất để anh LQ_Thứ làm nhà ở riêng nên họ tộc không đồng ý, từ đó nảy sinh mâu thuẫn. Nay cụ NĐ_Mãi khởi kiện, yêu cầu Tòa án chia thừa kế di sản của cố An, cố Giếng là quyền sử dụng diện tích đất nêu trên.
115/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1040
- 13
Năm 1968, cụ Vy chết; ông và cụ Nguyễn Thị Tất đồng ý cho bà BĐ_Nguyễn Thị Châu (là em cửa ông) dựng nhà ở tạm trên một phần đất, nhưng sau đó bà BĐ_Châu chiếm toàn bộ nhà đất nêu trên. Năm 1994, được sự ủy quyên của cụ Tât, ông đã khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Châu trả lại nhà đất và tại Quyết định số 67/QĐ ngày 29/10/1996, Tòa án nhân dân thành phố H đình chỉ giải quyết vụ án với lý do: cụ Tất khởi kiện đòi lại nhà cho ở nhờ, nhưng đã chết. Sau đó, ông tiếp tục có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản nêu trên, nhưng do em trai ông là ông LQ_Nguyễn Đình Thức đang ở nước ngoài nên Tòa án nhân dân tỉnh TTH tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Đến ngày 08/11/2006, Tòa án nhân dân tỉnh TTH có thông báo tiếp tục giải quyết vụ án. Ông yêu cầu chia thừa kế tài sản của bố mẹ ông để lại theo quy định của pháp luật.