cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

1675/2014/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng tín dụng Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1131
  • 22

Tranh chấp hợp đồng tín dụng

31-12-2014
TAND cấp tỉnh

Ngày 23/3/2013 LQ_Ngân hàng thương mại cổ phần Phúc Linh có cho ông bà BĐ_Nguyễn An Nhiên, BĐ_Bùi Thị Hoa vay số tiền 400.000.000 đồng (bốn trăm triệu đồng), mục đích vay tiền là bổ sung vốn kinh doanh xăng dầu thời hạn vay là 12 tháng, lãi suất 19%/năm; đồng thời ông bà đã thế chấp nhà đất theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất số 79/2007/GCN.UB ngày 31/10/2007 do UBND huyện NB cấp cho ông BĐ_Nguyễn An Nhiên, bà BĐ_Bùi Thị Hoa. Đến nay đã quá thời hạn trả nợ và Ngân hàng cũng đã nhiều lần gia hạn nhưng ông BĐ_Nhiên, bà BĐ_Hoa vẫn chưa trả hết nợ trên. Nay LQ_Ngân hàng thương mại cổ phần Phúc Linh yêu cầu Tòa án buộc ông BĐ_Nhiên, bà BĐ_Hoa phải có trách nhiệm trả lại cho LQ_Ngân hàng thương mại cổ phần Phúc Linh tính cho đến ngày hôm nay là 443.494.858 đồng. Trong đó tiền vốn là 399.997.164 đồng, tiền lãi quá hạn là 28.997.794 đồng, lãi phạt 14.499.900 đồng và phải trả lãi cho đến khi nào trả hết nợ; nếu đến hạn ông BĐ_Nhiên, bà BĐ_Hoa vẫn không trả được nợ trên thì yêu cầu cho LQ_Ngân hàng thương mại cổ phần Phúc Linh được phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ.


1675/2014/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 735
  • 17

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

31-12-2014
TAND cấp tỉnh

Ngày 25/5/2007 vợ chồng ông BĐ_Nguyễn An Nhiên, bà BĐ_Bùi Thị Hoa có làm “giấy bán nhà” cho ông NĐ_Khang, bà NĐ_An căn nhà số 149/7 Ấp 3, xã HP, huyện NB, Thành phố HCM với giá 450.000.000 đồng (bốn trăm năm mươi triệu đồng) trong đó diện tích đất khuôn viên là 201m2 (thể hiện tại Bản đồ hiện trạng vị trí ngày 20/10/2009). Ông NĐ_Khang, bà NĐ_An đã giao cọc 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng), số tiền còn lại là 350.000.000 đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng) sẽ thanh toán hết sau khi ông BĐ_Nhiên, bà BĐ_Hoa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và hoàn tất thủ tục chuyển nhượng sang tên cho ông NĐ_Khang, bà NĐ_An. Ông bà đã nhận nhà sử dụng và tiến hành sửa chữa lại như hiện nay.


1579/2014/DSPT: Tranh chấp thừa kế Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1456
  • 38

Tranh chấp thừa kế

15-12-2014
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn - ông NĐ_Phạm Văn Bình trình bày: Cha ông là ông Phạm Văn Mười và mẹ là bà Phạm Thị Quý có 11 người con chung, không có con riêng gồm: Ông NĐ_Phạm Văn Bình (nguyên đơn); ông BĐ_Phạm Văn Thông (bị đơn); bà LQ_Phạm Thị Kim Thư; bà LQ_Phạm Thị Kim Phụng; bà LQ_Phạm Thị Kim Linh; bà LQ_Phạm Thị Kim Hải; bà LQ_Phạm Thị Kim Giang; bà LQ_Phạm Thị Kim Châu; ông LQ_Phạm Văn Sâm; ông LQ_Phạm Văn Đông; ông LQ_Phạm Văn Hà (chết năm 2008 - có vợ là bà Nguyễn Ngọc Em và 2 người con là bà Phạm Thị Kim Oanh và ông Phạm Ngọc Tùng)


1420/2014/DSPT: Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 991
  • 13

Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản

04-11-2014
TAND cấp tỉnh

Vào khoảng 18 giờ ngày 18 tháng 10 năm 2011, ông NĐ_Võ Công Trà đi xe gắn máy loại SH 150, biển số 54 V6 - 7991 vô quán cà phê CEN, địa chỉ số 169 BV, Phường 14, quận TB, Thành phố HCM để uống cà phê. Tại đây, nhân viên bảo vệ của quán giao cho ông thẻ giữ xe ghi số 252440 do LQ_Công ty Cổ phần dịch vụ Bảo vệ Đại Vinh phát hành (từ đây viết tắt là LQ_Công ty Đại Vinh). Đến khoảng 19 giờ thì nhân viên quán vô báo với ông NĐ_Trà là xe của ông bị mất và có một người giới thiệu tên là Tín, nhân viên LQ_Công ty Cổ phần dịch vụ Bảo vệ Đại Vinh nói là sẽ thương lượng bồi thường và hẹn ông NĐ_Trà sáng ngày hôm sau đến quán cà phê CEN để giải quyết.


1302/2014/DS-PT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 485
  • 24

Tranh chấp quyền sử dụng đất

25-09-2014
TAND cấp tỉnh

Căn cứ vào Bản kê khai nhà cửa ngày 21/12/1977 của bà Lê Thị Nam thì diện tích sử dụng chính của căn nhà tại 1456 BT, Phường 7, Quận Y, Thành phố HCM là 26 m2. Căn cứ vào các hình ảnh do đương sự cung cấp và sự thừa nhận của các bên đương sự thì căn nhà lúc đó có kết cấu là nhà vách lá. Trong quá trình sinh sống, bà BĐ_Hà và ông Hiệp đã có công xây cất căn nhà từ năm 1993 để có hiện trạng như bây giờ, sự việc này được những hộ dân xung quanh xác nhận nên có cơ sở để xác định căn nhà tại 1456 BT, Phường 7, Quận Y, Thành phố HCM (theo định giá là 198.457,350 đồng) thuộc sở hữu của ông Hiệp, bà BĐ_Hà. Phía nguyên đơn cùng những người liên quan cho rằng căn nhà này của bố mẹ bỏ tiền ra xây dựng nhưng không có gì chứng minh nên không có cơ sở để chấp nhận. Do đó, cấp sơ thẩm xác định căn nhà là di sản thừa kế là không đúng với thực tế.