188/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 505
- 20
Theo bà NĐ_Siết trình bày: Năm 1971, nhà nước làm mương Đông Mô nên lấy vào 2/3 đất thổ cư của cụ Tuyết và cụ Hảo để làm mương, ủy ban nhân dân xã SĐ, thị xã ST có cấp đền bù cho cụ Hảo thửa đất khác, diện tích là 909m2. Cụ Hảo đã phân chia luôn cho bà BĐ_Thụ sử dụng 517m2, còn ông Chính (chồng của bà) được chia 393m2. Các người con gái của cụ Hảo đã chuyển nguyên vật liệu của ngôi nhà cũ về làm một gian 2 chái trên phần đất chia cho ông Chinh để cho cụ Hảo ở, thời gian này ông Chinh công tác tại BV nên thỉnh thoảng mới về thăm cụ Hảo. Năm 1975, vợ chồng bà đã tháo dỡ nhà và xây lại 3 gian nhà bằng tường đá ong, lợp ra để cụ Hảo ở. Năm 1985, ông Chinh về ở cùng cụ Hảo, đến năm 1987 ông Chinh ốm nên về BV với vợ con thì cụ Hảo chết. Sau khi cụ Hảo chết một thời gian, ông Chinh đã bán nguyên vật liệu nhà cho người khác dỡ đi, trên đất còn lại 3 cây mít, 2 cây trứng gà, 2 dõng chè tươi, ông Chinh gửi bà BĐ_Thụ trông nom hộ.
188/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 515
- 11
Theo bà NĐ_Siết trình bày: Năm 1971, nhà nước làm mương Đông Mô nên lấy vào 2/3 đất thổ cư của cụ Tuyết và cụ Hảo để làm mương, ủy ban nhân dân xã SĐ, thị xã ST có cấp đền bù cho cụ Hảo thửa đất khác, diện tích là 909m2. Cụ Hảo đã phân chia luôn cho bà BĐ_Thụ sử dụng 517m2, còn ông Chính (chồng của bà) được chia 393m2. Các người con gái của cụ Hảo đã chuyển nguyên vật liệu của ngôi nhà cũ về làm một gian 2 chái trên phần đất chia cho ông Chinh để cho cụ Hảo ở, thời gian này ông Chinh công tác tại BV nên thỉnh thoảng mới về thăm cụ Hảo. Năm 1975, vợ chồng bà đã tháo dỡ nhà và xây lại 3 gian nhà bằng tường đá ong, lợp ra để cụ Hảo ở. Năm 1985, ông Chinh về ở cùng cụ Hảo, đến năm 1987 ông Chinh ốm nên về BV với vợ con thì cụ Hảo chết. Sau khi cụ Hảo chết một thời gian, ông Chinh đã bán nguyên vật liệu nhà cho người khác dỡ đi, trên đất còn lại 3 cây mít, 2 cây trứng gà, 2 dõng chè tươi, ông Chinh gửi bà BĐ_Thụ trông nom hộ.
149/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 326
- 1
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Nguyên đơn, bà NĐ_Nguyễn Thị Hảo xác đinh yêu cầu khởi kiện như sau: Bà NĐ_Hảo cho bà BĐ_Trần Tú Linh vay tiền, tổng cộng 3 lần, với tổng số tiền là 110.000.000 (một trăm mười triệu) đồng, cụ thể như sau: Lần một: Ngày 14/01/2008, cho bà BĐ_Linh vay 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng, lãi suất 3% tháng, khi vay có thế chấp chủ quyền nhà đứng tên vợ chồng bà BĐ_Linh và ông LQ_Hùng, hai bên có lập giấy tay do bà LQ_Trần Thị Thu Hương viết và cùng bà BĐ_Linh ký tên, Lãi suất sẽ trả cùng thời điểm trả vốn, thời hạn vay là 4 tháng. Lần hai: Vào ngày 21/02/2008, bà NĐ_Hảo tiếp tục cho bà BĐ_Linh vay thêm 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng, lãi 3% tháng, thời gian vay là 4 tháng, chỉ nói miệng và ghi thêm vào giấy nợ lần một.
25/2013/QĐ-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 851
- 9
Yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật
Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/10/2006 và quá trình giải quyết vu kiên, nguyên đơn là bà NĐ_Trần Thị Vui trình bày: Cụ Trần Quang Tánh và cụ Bùi Thị Lượng có 6 người con là: LQ_Trần Thị Hồng, bà LQ_Trần Thị Soa, ông LQ_Trần Văn Kiên (hiện nay đang cư trú tại Australia), bà Trần Thị Yên, ông Trần Văn Vận và bà NĐ_Trần Thị Vui. Cụ Tánh chết năm 1987, cụ Lương chết năm 1985 đều không LQ_Đức lại di chúc. Bà Yên chết năm 2003, chồng bà Yên là ông Phạm Trọng Nhật chết năm 1947, bà Yên có 2 con là chị Phạm Thị Phận (chị Phận không có chồng, có 1 con là LQ_Phạm Hoàng Tiến) và anh LQ_Phạm Văn Đức.
25/2013/QĐ-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 309
- 5
Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/10/2006 và quá trình giải quyết vu kiên, nguyên đơn là bà NĐ_Trần Thị Vui trình bày: Cụ Trần Quang Tánh và cụ Bùi Thị Lượng có 6 người con là: LQ_Trần Thị Hồng, bà LQ_Trần Thị Soa, ông LQ_Trần Văn Kiên (hiện nay đang cư trú tại Australia), bà Trần Thị Yên, ông Trần Văn Vận và bà NĐ_Trần Thị Vui. Cụ Tánh chết năm 1987, cụ Lương chết năm 1985 đều không LQ_Đức lại di chúc. Bà Yên chết năm 2003, chồng bà Yên là ông Phạm Trọng Nhật chết năm 1947, bà Yên có 2 con là chị Phạm Thị Phận (chị Phận không có chồng, có 1 con là LQ_Phạm Hoàng Tiến) và anh LQ_Phạm Văn Đức. Ông Trần Văn Vận chết năm 1991, có vợ là bà BĐ_Thân Thị Hoàng Lan, có 3 ngưòi con là BĐ_Trần Quang Tú, LQ_Trần Quang Tình và LQ_Trần Hồng Hà.