09/2015/HC-GĐT: Khiếu kiện quyết định hành chính về xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế Giám đốc thẩm Hành chính
- 2910
- 45
Khiếu kiện quyết định hành chính về xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế
NĐ_Công ty TNHH Trinh Nữ được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh QN cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu ngày 11/3/2002, với ngành nghề kinh doanh là: Xây dựng công trình dân dụng; Kinh doanh dịch vụ du lịch và các dịch vụ thương mại; Kinh doanh đầu tư hạ tầng đô thị, khu công nghiệp, các khu thương mại, siêu thị, trường học, đầu tư nhà ở”. Kể từ khi được thành lập đến năm 2005, NĐ_Công ty TNHH Trinh Nữ mới bắt đầu phát sinh thu nhập chịu thuế về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng. Năm 2006, phát sinh thu nhập chịu thuế từ hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
01/2015/HC-GĐT: Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất Giám đốc thẩm Hành chính
- 773
- 25
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất
Năm 1987, Nhà nước có quy hoạch và giao đất cho Công ty Dầu thực vật Thuận Hải thực hiện dự án trồng dừa tại xã Tân Thiện, huyện Hàm Tân, tỉnh Thuận Hải cũ (nay là xã TP, thị xã LG, tỉnh BT). Thực hiện dự án trên, ngày 17/6/1989, Trạm dầu thực vật Hàm Tân ký Hợp đồng số 1005/MT-DTV(1988-1993) với ông NĐ_Đinh Văn Tú để trồng mới 80 cây dừa trên đất Nhà nước đã giao cho Công ty Dầu thực vật quản lý, sử dụng để trồng dừa. Phương thức hợp đồng theo luận chứng kinh tế kỹ thuật của Phòng Nông nghiệp Liên Hiệp các xí nghiệp dầu thực vật Việt Nam là: Trạm dầu thực vật Hàm Tân cung cấp cây giống, vật tư phân bón; ông NĐ_Tú thực hiện trồng và chăm sóc cây dừa. Hợp đồng thực hiện theo Quy định tạm thời một số chính sách trồng dừa và quản lý sản phẩm dừa (ban hành kèm theo Quyết định số 894/QĐ-UB-TH ngày 13/7/1988 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thuận Hải). Trong đó thể hiện chu kỳ kinh tế của cây dừa là 45 năm.
95/2012/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
- 1843
- 43
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Ngày 02/5/2010 bà NĐ_Trần Thị Kim Phúc được tuyển vào làm việc tại BĐ_Công ty TNHH TM SX DV Dương Minh (gọi tắt là BĐ_Công ty Dương Minh) với công việc là nhân viên bán hàng, theo dõi hàng xuất bán ra hàng ngày, hàng nhập kho, giá cả hàng hóa, thanh toán công nợ với khách hàng, đối chiếu hàng nhập kho với thủ kho. Đến ngày 01/01/2011 bà NĐ_Phúc mới được ký hợp đồng lao động với công ty, thời hạn 01 năm. Bà NĐ_Phúc vẫn làm việc bình thường thì ngày 21/11/2011 BĐ_Công ty Dương Minh ra Quyết định số 02/Q ĐTV-2011 chấm dứt hợp đồng trước thời hạn với lý do xét thấy công việc không phù hợp cần giảm biên chế cho công ty, công ty chỉ thanh toán lương tháng 11 cho bà NĐ_Phúc với số tiền là 2.975.000 đồng, không có bất kỳ khoản trợ cấp nào khác.
10/2012/LĐ-ST: Tranh chấp bảo hiểm xã hội Sơ thẩm Lao động
- 1890
- 19
Sau nhiều lần làm việc cụ thể với BĐ_Công ty Cổ phần thương mại Dịch vụ Hưng Yên về việc thực hiện trích nợ, giải quyết nợ đọng tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp (viết tắt là BHXH, BHYT, BHTN) nhưng BĐ_Công ty Cổ phần thương mại Dịch vụ Hưng Yên vẫn không thực hiện nghĩa vụ làm ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của người lao động. Hiện BĐ_Công ty Cổ phần thương mại Dịch vụ Hưng Yên ỹ còn nợ số tiền BHXH, BHYT, BHTN từ tháng 03/2011 đến tháng 9/2012 là 2.650.975.393 đồng. Nay NĐ_Bảo hiểm xã hội quận T yêu cầu Tòa án buộc BĐ_Công ty Cổ phần thương mại Dịch vụ Hưng Yên phải nộp ngay vào quỹ BHXH tổng số tiền nợ đọng còn thiếu hiện tại là 2.650.975.393 đồng trong đó số nợ gốc là 2.398.916.942 đồng, tiền lãi phát sinh là 252.058.451 đồng, yêu cầu trả ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật. Từ tháng 10/2012 yêu cầu BĐ_Công ty Cổ phần thương mại Dịch vụ Hưng Yên thực hiện trích nộp hàng tháng tiền BHXH, BHYT, BHTN của người lao động theo đúng quy định của pháp luật về Bảo hiểm xã hội.
09/2012/LĐST: Tranh chấp hợp đồng lao động và đòi tiền trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội Sơ thẩm Lao động
- 421
- 10
Tranh chấp hợp đồng lao động và đòi tiền trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội
Tại đơn khởi kiện ngày 01/8/2011, tại bản tự khai ngày 14/11/2011, biên bản ghi nhận sự việc ngày 22/02/2012 và tại phiên hòa giải ngày 28/6/2012, nguyên đơn là bà NĐ_Trần Thị Kim Huy trình bày: Vào ngày 02/4/2000, bà vào làm việc tại Phòng khám của bác sĩ BĐ_Nguyễn Quốc Thịnh với mức lương 4.600.000 đồng, đến 01/01/2006 bà ký hợp đồng không thời hạn với Phòng khám và từ tháng 4/2009 lương của bà là 5.400.000 đồng, quá trình làm việc không có sai sót hay bị kỷ luật gì. Ngày 01/10/2010, bà làm đơn xin nghỉ việc vì lý do sức khỏe nhưng không được ông BĐ_Thịnh chấp nhận. Ngày 05/10/2010, ông BĐ_Thịnh họp Phòng khám để nhằm xem lại và xác nhận những vấn đề của Phòng khám và bà không đồng ý với những kết quả của cuộc họp trên. Sau đó ông BĐ_Thịnh thông báo bằng miệng cho bà nghỉ việc ngay ngày 05/10/2010 và báo cho cô Trúc thanh toán tiền lương 3,5 ngày làm việc là 728.000 đồng (mức lương tính là 5.400.000 đồng/tháng) sau khi trừ các khoản nợ tổng cộng là 1.582.000 đồng (bao gồm tiền quỹ đen, tiền nợ tã chưa bàn giao, tiền phiếu khám bệnh bệnh nhân mua mà chưa khám-theo giấy nộp Tòa ngày 15/6/2012) bà còn thiếu lại 854.000 đồng (1.582.000 đồng -728.000 đồng= 854.000 đồng) và bà chưa trả khoản tiền này. Ngày 06/10/2010 bà có đến yêu cầu ông BĐ_Thịnh trả lại đơn xin nghỉ việc nhưng ông BĐ_Thịnh không trả mà giải quyết cho bà nghỉ việc bằng miệng.