237/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 462
- 8
Theo đơn khởi kiện ngày 7/3/2007 và các lời khai của ông NĐ_Phạm Văn Thanh trình bày: Nguồn gốc diện tích đất 724m2 đang tranh chấp là của chị gái ông tên Phạm Thị Bích Lựu mua của ông Lâm Minh Trung năm 1997. Năm 1999, bà Lựu được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2001, bà Lựu chuyển nhượng lại cho ông và ông đã làm thủ tục sang tên xong. Sau khi mua ông đã quản lý đất, trồng rau, làm lều nuôi vịt. Do bị ô nhiễm nên năm 2003 ông không nuôi vịt nữa, lều vịt tự sập đổ. Đất của ông có một mặt tiếp giáp với tường nhà máy nước đá Quốc Hương do bà BĐ_Trần Thị Hà là chủ. Năm 2004, bà BĐ_Hà đục tường nhà máy cho đổ đất vào diện tích đất của ông. Ông đã có đơn ngăn chặn gửi Ủy ban nhân dân phường, thành phố và tỉnh nhưng không được giải quyết. Nay ông yêu cầu bà BĐ_Hà trả đất để ông sử dụng, ông sẽ trả tiền san lấp theo định giá cho bà BĐ_Hà.
380/2014/DS-GĐT: Đòi lại nhà cho ở thuê Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 911
- 7
Ngày 21/4/2009 ông đã mua nhà đất của chị BĐ_Hương tại số 33, ngách 23, ngõ 118, tổ 3, phường BĐ, quận LB. Khi mua hai bên đã lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại phòng công chứng số 1A Nguyễn Khánh Toàn, quận Cầu Giấy, thành phố HN. Theo nội dung hợp đồng nêu trên thì chị BĐ_Hương bán cho ông nhà và đất thuộc địa chỉ nêu trên. Đất có diện tích 24,76m2, trên đất có 01 nhà bê tông 2 tầng, diện tích xây dựng là 24,76m2 với giá 500.000.000 đồng. Nhà đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà BĐ_Chu Thị Hương. Sau khi lập hợp đồng xong bà BĐ_Hương cầm hợp đồng về, ông đã đến nhà giao đủ cho bà BĐ_Hương 500.000.000 đồng tại nhà bà BĐ_Hương và lấy lại hợp đồng, bà BĐ_Hương đã viết biên bản giao nhà. Sau đó bà BĐ_Hương đã hỏi xin thuê nhà trog vòng 3 tháng để bà tìm chỗ khác và ông đã đồng ý. Khi cho bà BĐ_Hương thuê hai bên đã lập hợp đồng thuê nhà. Hợp đồng thuê nhà lập cùng ngày với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
359/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 306
- 3
Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Cụ NĐ_Bùi Thị Hoa khởi kiện đòi anh BĐ_Trần Văn Minh phải trả lại diện tích 120m2 đất trước năm 2001 là ao tại thửa số 237, tờ bản đồ số 29, loại đất lâu năm quả, bản đồ năm 2007 (bản đồ năm 2001 thể hiện tại thửa 51, tờ số 24) mang tên anh BĐ_Trần Văn Minh của xã ĐH, huyện KĐ, tỉnh HY. Quan điểm của cụ NĐ_Hoa xác định khoảng năm 1970 do sông lở không còn đất nên cụ đã sang thôn 6, xã ĐH mua lại đất của cụ Nguyễn Thị Khoản (cụ Khoản chuyển đi Tây Bắc nay đã chết), trong đó có cả phần đất (trước kia là ao) đang tranh chấp. Cụ NĐ_Hoa sử dụng đất và phần ao mua lại của cụ Khoản đến năm 2001, gia đình anh BĐ_Trần Văn Minh đổ đất san lấp lấn chiếm 2/3 ao với diện tích 120m2 xây tường bao giáp ngõ đi vào nhà. Cụ NĐ_Hoa đã đề nghị với cơ sở thôn để hòa giải yêu cầu anh BĐ_Minh không được đổ đất, nhưng anh Manh vẫn cố tình lấn chiếm.
50/2014/DS-GĐT: Đòi lại tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 376
- 5
Đơn khởi kiện ngày 06/5/2010 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà NĐ_Vũ Thị Phụng trình bày: Năm 1981 ông Lê Xuân Quốc và bà NĐ_Vũ Thị Phụng được xí nghiệp đá Yên Cư cấp 02 gian nhà tập thể cấp 4 nằm trên diện tích 400m2 đất. Sau khi ở gia đình bà khai hoang thêm 200m2 đất (liền kề) tọa lạc tại xã ĐY, thành phố HL, tỉnh QN. Năm 2001, ông Quốc chết nên toàn bộ nhà và diện tích đất trên do bà NĐ_Phụng và các con quản lý (BL86). Tháng 2/1993, ông BĐ_Lê Xuân Hương hỏi ông Quốc mượn một phần đất (thuộc phần 200m2 đất gia đình khai hoang thêm) để xây quán. Tháng 3/2005, anh Thanh (em vợ ông BĐ_Hương) mượn thêm 60m2 của gia đình bà để làm kho chứa vật liệu xây dựng, sau này anh BĐ_Hương đã sử dụng thêm cả phần diện tích anh Thanh trả với tổng diện tích là 187m2. Năm 2005 Nhà nước đã cấp Giấy CNQSD đất ở cho ông Quốc và bà NĐ_Phụng tổng diện tích 610,2m2 trong đó có 2.00m2 đất khai hoang thêm. Nay bà NĐ_Phụng yêu cầu ông BĐ_Hương phải trả lại phần diện tích 187m2 đất nói trên.
01/2011/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 621
- 6
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện ngày 18/11/2009, các biên bản tự khai và các lần hòa giải, nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Văn Hà̉ trình bày: Ngày 18/11/2004, ông NĐ_Hà̉ nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông BĐ_Võ Văn Cung̀̉ và bà BĐ_Nguyễn Thị Tình có chiều ngang 7m dài 18m (hết đất) thuộc thửa đất số 30 tờ bản đồ số 11 tại ấp Phú Bưng, xã PC với giá 110.000.000 đồng. Đo đạc thực tế diện tích 118m2 thuộc thửa 637 (tách từ thửa 30) tờ bản đồ số 11. Ông NĐ_Hà̉ giao tiền cho ông BĐ_Cung̀̉ hai lần cụ thể: ngày 18/11/2004 đặt cọc 40.000.000 đồng, ngày 05/12/2004 số tiền còn lại là 70.000.000 đồng. Theo giấy mua bán đất thì khi ông NĐ_Hà̉ giao hết số tiền còn lại bên ông BĐ_Cung̀̉ phải làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, do hoàn cảnh của ông NĐ_Hà̉ khó khăn không có tiền làm thủ tục sang tên và do bà BĐ_Nguyễn Thị Tình là cô ruột của ông NĐ_Hà̉ nên ông NĐ_Hà̉ tin tưởng giao hết tiền mua đất cho vợ chồng ông BĐ_Cung̀̉ rồi làm thủ tục chuyển nhượng sau.