102/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1000
- 8
Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
Tại đơn khởi kiện ngày 09/5/2008 và quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Lê Văn Duy trình bày: Vào ngày 07/02/2001, ông có gửi đại lý của bà BĐ_Nguyễn Thị Thuỳ Minh 3.225kg cà phê nhân xô, bà BĐ_Minh có ghi giấy nhận cà phê và đưa cho ông giữ để làm tin. Hai bên thoả thuận khi nào giá cà phê lên thì chốt giá lấy tiền. Theo thoả thuận trên, tháng 4/2007 giá cà phê lên 9.700đ/kg thì ông điện thoại cho bà BĐ_Minh chốt giá là 9.700đ/kg, quy thành tiền là 31.285.000đ, nhưng bà BĐ_Minh khất lần mãi không trả. Vì vậy, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng bà BĐ_Minh, ông LQ_Sang phải trả cho ông số cà phê đã gửi hay thanh toán tiền cà phê theo giá hiện hành hoặc trả tiền cà phê như tại thời điểm chốt giá và tiền lãi phát sinh.
100/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1523
- 24
Nguyên đơn, bà NĐ_Nguyễn Thị Thắm xác định yêu cầu cầu khỏi kiện như sau: Bà và một số người quen biết và rủ nhau cùng chơi hụi. Mục đích của chơi hụi là góp vốn cho nhau dựa trên cơ sở tự nguyện của các bên. Do được tin tưởng nên mọi người cử Bà làm chủ hụi, là người có trách nhiệm thu tiền hụi của các thành viên để đưa cho người hốt hụi. Người hốt hụi phải chi cho bà số tiền là 50% trên mệnh giá của phần hụi, ví dụ hụi 1.000.000 đồng một phần thì khi hốt hụi thành viên nào được hốt sẽ chi cho Bà 500.000 đồng gọi là tiền hoa hồng. Chủ hụi là người ghi và giữ sổ hụi và khi bắt đầu tổ chức dây hụi thì chủ hụi có trách nhiệm ghi cho mỗi thành viên một tờ giấy để theo dõi, nội dung tờ giấy ghi ngày tháng năm bắt đầu chơi, tên các thành viên chơi hụi, tổng số phần hụi, nếu có tranh chấp thì các thành viên căn cứ vào tờ giấy ghi hụi sẽ gặp chủ hụi để giải quyết. Mọi người thoả thuận bằng miệng với nhau về cách chơi.
44/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 361
- 3
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Do mối quan hệ lối xóm nên ngày 05/9/2005, bà NĐ_Hồng có cho bà BĐ_Lê Thị Hải vay số tiền là 420.000.000 (bốn trăm hai mươi triệu) đồng để mua đất và đáo hạn Ngân hàng trong thời gian là 03 tháng. Nhưng bà BĐ_Hải kéo dài 14 tháng mới thanh toán hết tiền vốn 420.000.000 đồng cho bà NĐ_Hồng vào ngày 29/10/2006, riêng tiền lãi chưa trả đồng nào. Cùng ngày 05/09/2005, bà BĐ_Hải vay thêm của bà NĐ_Hồng 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng, lãi 4%/tháng, thế chấp một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà BĐ_Hải, đất toạ lạc tại Châu Đức, thời gian vay là 10 ngày. Khi vay chính bà BĐ_Hải viết “giấy vay nợ” và ký tên tại nhà bà NĐ_Hồng, thời gian ký vào buổi chiều khoảng 15 giờ 00’ đến 16 giờ 00’ ngày 05/09/2005 trong giấy có ghi góp mỗi ngày 2.000.000 (hai triệu) đồng. Từ ngày vay cho đến nay bà BĐ_Hải không trả cho bà NĐ_Hồng đồng vốn và lãi nào.
102/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 393
- 5
Vào ngày 07/02/2001, ông có gửi đại lý của bà BĐ_Nguyễn Thị Thy 3.225kg cà phê nhân xô, bà BĐ_Thy có ghi giấy nhận cà phê và đưa cho ông giữ để làm tin. Hai bên thoả thuận khi nào giá cà phê lên thì chốt giá lấy tiền. Theo thoả thuận trên, tháng 4/2007 giá cà phê lên 9.700đ/kg thì ông điện thoại cho bà BĐ_Thy chốt giá là 9.700đ/kg, quy thành tiền là 31.285.000đ, nhưng bà BĐ_Thy khất lần mãi không trả. Vì vậy, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng bà BĐ_Thy, ông LQ_Nhơn phải trả cho ông số cà phê đã gửi hay thanh toán tiền cà phê theo giá hiện hành hoặc trả tiền cà phê như tại thời điểm chốt giá và tiền lãi phát sinh
78/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 324
- 6
Ông BĐ_Toàn có xuất trình 03 bản “Chúc thư giao quyền thừa kế” đề tên cụ Ca lập ngày 02/1/1996, có chữ ký đề tên ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Đinh, ông NĐ_Tin nhưng ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Đinh, ông NĐ_Tin đều cho rằng các ông không ký vào 03 chúc thư trên mà chỉ ký vào 01 tờ giấy trắng do ông BĐ_Toàn nhờ ký để làm thủ tục vay tiền của Ngân hàng, nên không thừa nhận các di chúc trên, nên yêu cầu chia thừa kế tài sản của 02 cụ cho 08 người con và chia bằng hiện vật; xin được sử dụng nhà gỗ 03 gian và diện tích đất được chia để làm nơi thờ cúng cha mẹ. Đồng thời, đề nghị Tòa án giám định 03 “Chúc thư giao quyền thừa kế” và giám định chữ ký của ông NĐ_Linh, ông NĐ_Tú, ông NĐ_Tin, ông NĐ_Đinh trong 03 chúc thư trên.