06/2014/GĐT-HC: Khiếu kiện quyết định hành chính về việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai Giám đốc thẩm Hành chính
- 1864
- 33
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Năm 2003, ông Huỳnh Văn Thoàn khởi kiện vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất” với ông LQ_Nguyễn Văn Hoan (chồng bà NĐ_Nguyễn Thị Dương), cùng trú tại thôn 1, xã TC, huyện TP, tỉnh QN. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 03/DSPT ngày 01/3/2004, Tòa án nhân dân tỉnh QN đã quyết định: “Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Thoàn; công nhận quyền sử dụng đất ở và vườn của ông Thoàn 925m2 là hợp pháp. Xác định ranh giới sử dụng đất giữa hộ ông Thoàn và ông LQ_ Hoan.
11/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3915
- 133
Từ năm 1997 đến năm 2000, bà cho ông BĐ_Thân, bà BĐ_Bảo mượn 40 lượng vàng ( vay 3 lần), nhưng chỉ tính lãi 20 lượng vàng; còn 20 lượng thì bà BĐ_Bảo mua giùm bà 2 nền nhà ở chợ Cái Tắc vào năm 2001, nên vợ chồng bà BĐ_Bảo chỉ còn nợ bà 20 lượng vàng. Năm 2001, bà đồng ý cho bà BĐ_Bảo cất 1 căn nhà tạm trên phần đất thổ cư để làm quán bán giải khát, nhưng bà BĐ_Bảo lại cất nhà cấp 4. Bà và bà BĐ_Bảo thỏa thuận rằng : bà lấy căn nhà cấp 4 nói trên; còn bà BĐ_Bảo lấy một trong hai nền nhà tại chợ Cái Tắc; bà BĐ_Bảo sang tên 10.206m2 đất nói trên cho ông Nguyễn Tấn Thành (em chồng bà ). Sau đó, vợ chồng bà BĐ_Bảo bán một nền nhà của bà ( còn lại) ở chợ Cái Tắc và đã đưa tiền cho bà. Còn thỏa thuận nói trên thì vợ chồng bà BĐ_Bảo không thực hiện.
160/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 238
- 5
Về tài sản chung: Hai bên khai không thống nhất. Phía chị Ngọc cho rằng vợ chồng tạo lập được căn nhà mái tole vách tường nền gạch trên mảnh đất thổ cư, một tủ quần áo, một tivi 14 inch, 14 thùng đựng hột vịt muối, một xe honda 67, số tiền mặt chị giữ 5.000.000 đồng cho chị Trương Bích Thủy mượn 3.000.000 đồng cho anh Trương Thanh Dân mượn 560.000 đồng. Khi đi chị có mang theo một tủ quần áo, một thùng đựng hột vịt muối và 5.000.000 đồng.
11/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1997
- 40
Tại đơn khởi kiện đề ngày 13/3/1999 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, gia đình bà NĐ_Nguyễn Thị Thước yêu cầu gia đình ông BĐ_Trương Văn Siêng trả lại 3200m2 đất tại các thửa số 850 và 851, tờ bản đồ số 5, ấp GD, xã BP, huyện TH, tỉnh ĐT (trong đó có 350m2 đất thổ cư và 2850m2 đất vườn); đồng thời yêu cầu gia đình ông BĐ_Siêng bồi thường 1.700.000 đồng giá trị các cây me nước trên đất mà ông BĐ_Siêng đã chặt và trả lại 10.800.000 đồng mà Nhà nước đã đền bù cho gia đình ông BĐ_Siêng khi thu hồi 360m2 trong diện tích đất trên.
10/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 812
- 11
Theo các nguyên đơn thì: Căn nhà số 83 phố ĐC trước đây là căn nhà gạch một tầng nằm trên thửa đất có diện tích 65m2, có nguồn gốc là nhà đất của ông bà nội của các nguyên đơn bỏ tiền ra mua khoảng năm 1943 nhằm để cho con dâu (là cụ Kiềm) cùng các cháu nội (là các nguyên đơn) sử dụng. Do bố của các nguyên đơn là cụ Dương Văn Cách đã chết từ năm 1938 và cụ Kiềm khi đó còn trẻ có khả năng lấy chồng khác, để bảo vệ quyền lợi cho các cháu của mình, ông bà nội của các nguyên đơn đã để cho các nguyên đơn cùng cụ Kiềm đứng tên sở hữu chung đối với nhà đất trên. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh nên các nguyên đơn đã làm thất lạc và hiện không còn giấy tờ gì về nhà đất nói trên. Năm 1959 gia đình nguyên đơn cho Tổ hợp tác Tự cứu thuê, năm 1963 thì Tổ hợp tác Tự cứu trả lại, cụ Kiềm tiếp tục cho gia đình bà BĐ_Tòng thuê ở từ năm 1963 đến nay.