cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

524/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 389
  • 3

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

17-12-2014

Nguyên đơn cụ NĐ_Võ Thị Thịnh trình bày: Vào năm 1990 được sự đồng ý của Đảng ủy, UBND xã HP, huyện HV có tổ chức bán đấu giá các gian nhà của Hợp tác xã mua bán HP, trong quá trình đấu thầu cụ NĐ_Thịnh là người trúng thầu mua với giá 5.000.000đ và được sở hữu, ngôi nhà trên có 3 phòng, địa chỉ ngôi nhà tại thôn Đông Lâm, xã HP, huyện HV, thành phố ĐN. Sau đó cụ NĐ_Thịnh nhượng lại cho ông Huỳnh Mẫn 01 phòng giáp đường ĐT 604 với số tiền là 2.000.000đ và sau đó vài năm bà Thận có nhượng lại cho bà LQ_Phan Thị Hương 01 phòng ở phía trong cùng giáp với nhà ông Hồ Tấn Quang với giá 1.500.000đ, còn lại 01 phòng ở giữa và khuôn viên trước sau cụ NĐ_Thịnh để lại nhưng không có nhu cầu sử dụng. Việc chuyển nhượng cho bà LQ_Hương hai bên không viết giấy tờ gì vì cụ NĐ_Thịnh không biết chữ, hai bên chỉ thỏa thuận bằng miệng.


05/2011/DS-ST: Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 806
  • 7

Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

28-01-2011
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện ngày 07/01/2006, các biên bản tự khai và các lần hòa giải, nguyên đơn và đại diện nguyên đơn - ông Nguyễn Hữu An thống nhất trình bày: Ông NĐ_Lê Trọng Đinh và bà LQ_Lê Thị Hữu Hân có diện tích đất 75.000m2 (đo đạc thực tế là 84.000m2) tại ấp 5, thị trấn Uyên Hưng, huyện TU, BD, đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 05/8/1994. Trên diện tích đất này ông NĐ_Đinh, bà LQ_Hân đã đầu tư xây dựng nhà, trồng cây và chuồng trại để làm trang trại nuôi gà.


05/2011/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1450
  • 40

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

03-02-2012
TAND cấp huyện

Tổng cộng 07 lần vay với số tiền là 59.000.000 đồng, việc vay tiền có làm biên nhận do bà BĐ_Loan ký tên, hai bên không thỏa thuận thời gian trả mà chỉ thỏa thuận đóng lãi hàng tháng, khi nào cần lấy tiền vốn thì bà NĐ_Minh báo trước để ông BĐ_Hưng và bà BĐ_Loan chuẩn bị tiền, nhưng khi bà NĐ_Minh yêu cầu trả nợ thì bà BĐ_Loan và ông BĐ_Hưng không thực hiện việc trả nợ như đã thỏa thuận. Từ khi vay đến nay vợ chồng ông BĐ_Hưng và. bà BĐ_Loan có đóng lãi được 02 tháng của số tiền 5.000.000 đồng vay ngày 20/09/2006 với lãi suất 6%/tháng bằng 600.000 đồng. Ngoài ra sau khi có bản án số 231/DSST ngày 14/07.2008 của Tòa án nhân dân thành phố ST có hiệu lực thì vợ chồng ông BĐ_Hưng và bà BĐ_Loan có trả cho bà NĐ_Minh số tiền 36.000.000đồng.


58/2011/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2275
  • 42

Tranh chấp thừa kế

19-12-2011
Tòa phúc thẩm TANDTC

Sinh thời cha các nguyên đơn (ông Long) tạo lập được một số tài sản trong đó có các căn nhà và đất ở ST và khi còn sống thì ông Long đã chia cho các con của mẹ kế, còn lại căn nhà 3 tầng gắn liền diện tích đất thổ cư 53,2m2, tại thửa 412, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại số 28 đường HBT, khóm 1, phường 1, thành phố ST, hiện do cha là ông Long và mẹ kế là bà BĐ_Mai đứng tên chủ sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Khi còn sống, sợ sau này anh em có sự tranh chấp tài sản, nên cha các nguyên đơn đã đến Phòng Công chứng Nhà nước tỉnh ST lập bản di chúc vào ngày 16/01/2007, để lại toàn bộ tài sản của ông trong khối tài sản chung của vợ chồng là căn nhà và đất nói trên, cho hai người con là các nguyên đơn, mỗi người được hưởng phân nửa giá trị bằng nhau


170/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 966
  • 16

Tranh chấp thừa kế

22-04-2014

Cụ Nguyễn Bút và cụ Nguyễn Thị Sồng có 7 người con chung là các ông bà: LQ_Nguyễn Thị Như, Nguyễn Xuân Hiển (hy sinh ngày 04/3/1968), LQ_Nguyễn Hải Duy, LQ_Nguyễn Cát Tiên, BĐ_Nguyễn Châu Bảo, NĐ_Nguyễn Cao Sáu, LQ_Nguyễn Thị cẩm Tứ. Năm 1977 cụ Bút chết, năm 2002 cụ Sồng chết đều không để lại di chúc. Về tài sản: Hai cụ tạo lập được khối tài sản là 01 căn nhà ngói 3 gian, 01 căn nhà bếp và các công trình phụ trên diện tích khoảng 5.000m2 đất tại xóm 4 xã BX, huyện ĐT, tỉnh HT. Năm 2010, Nhà nước xây dựng cống Đức Xá, kênh trục sông Nghèn đi qua đất của 2 cụ và diện tích đất của hai cụ bị Nhà nước thu hồi khoảng 2000m2, ông BĐ_Bảo là người kê khai đất bị thu hồi và đền bù, số tiền đền bù 02 đợt gần 700.000.000đ. Hiện nay, diện tích thực tế còn lại khoảng trên 3.000m2, tuy nhiên phần đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích 1.020m2 mang tên cụ Nguyễn Thị Sồng. Nay yêu cầu chia tài sản thừa kế gồm tiền đền bù và phần đất nói trên cho các con. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông NĐ_Sáu chỉ yêu cầu chia thừa kế phần đất còn lại và chia số tiền đền bù đất (đợt 2) là 480.355.000đ