cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

184/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1171
  • 30

Tranh chấp quyền sử dụng đất

12-05-2014

Theo Đơn khởi kiện ngày 21/8/2009 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - ông NĐ_Nguyễn Văn Nga do đại diện được ủy quyền - ông Lê Trần Phú Đức trình bày: Năm 1995, ông NĐ_Nga mua nhà và đất của bà Nguyễn Thị Ngưu với diện tích đất là 1.115,35m2, việc mua bán giữa hai bên được chính quyền địa phương và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chứng thực. Khi mua, bà Ngưu đã được cấp Giấy đăng ký ruộng đất ngày 06/9/1984 với diện tích đất đăng ký là 1.104m2. Anh BĐ_Phan Văn Tuấn và anh BĐ_Phạm Quang Hoàng là người sử dụng đất liền kề với đất của ông NĐ_Nga theo hướng Nam đã xây nhà, lấn chiếm đất theo chiều ngang dọc Quốc lộ 28 cả hai anh (BĐ_Tuấn và Anh BĐ_Hoàng) là l,52m; theo chiều dài phía sau nhà thì anh BĐ_Tuấn lấn 2,4m, anh BĐ_Hoàng lấn l,05m. Ông NĐ_Nga khởi kiện yêu cầu anh BĐ_Tuấn, anh BĐ_Hoàng phải trả lại phần diện tích đã lấn chiếm cho ông.


534/2014/DS-GĐT: Đòi lại nhà đất cho ở nhờ Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 621
  • 12

Đòi lại nhà đất cho ở nhờ

19-12-2014

Năm 1966 cha mẹ vợ và các em vợ ông từ Bình Định lên KT sinh sống, dù khó khăn nhưng vẫn lấy lại 01 gian nhà đang cho thuê để cha mẹ ở nhờ bằng miệng, không viết giấy tờ, không thỏa thuận thời hạn. Từ năm 1972 đến năm 1975 do chiến tranh loạn lạc nên giấy tờ nhà bị thất lạc. Sau ngày 30/4/1975, ông BĐ_Đỗ Xuân Thuận (là em vợ) đưa vợ con từ Nha Trang lên KT, ông NĐ_Sinh cho ở nhờ 01 gian nhà tạm liền kề (phía Tây lô đất). Năm 1981 cụ Đỗ Châu (cha vợ) qua đời. Năm 1987 ông BĐ_Đỗ Xuân Thuận xin phép sửa lại nhà chống dột nhưng dỡ ra làm 01 gian, vì mẹ vợ là cụ Đặng Thị Phương còn sống nên ông không có ý kiến gì.


1314/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1552
  • 54

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

04-11-2008
TAND cấp tỉnh

Ngày 27-4-2001, ông BĐ_Hồ Tiết Phong, bà BĐ_Nguyễn Thị Hương ký hợp đồng bán căn nhà số 313 LQĐ, phường T, quận BT, có diện tích 60m2 trên 392m2 đất cho vợ chồng ông NĐ_Vương Quốc Lân, bà NĐ_Nguyễn Thị Bình với giá 460 lượng vàng SJC. Cùng ngày, ông NĐ_Lân, bà NĐ_Bình đã đặt cọc cho ông BĐ_Phong, bà BĐ_Hương 130 lượng vàng SJC. Hai bên thỏa thuận giao cho Công ty TNHH Đại Tín làm dịch vụ hợp thức hóa căn nhà và chuyển quyền sở hữu nhà từ bên bán sang bên mua trong thời hạn 05 tháng, tuy nhiên ông BĐ_Phong không giao hồ sơ nhà đất cho Công ty TNHH Đại Tín để hợp thức hóa nhà đất theo thỏa thuận và cũng không tự tiến hành thủ tục hợp thức hóa với lý do chưa hết hạn quy định trong hợp đồng. Qua tìm hiểu, ông được biết ông BĐ_Phong còn nhiều khoản nợ phải thi hành ở các vụ án khác; hiện tại toàn bộ bãn chính giấy tờ nhà 313 LQĐ, phường T, quận BT của vợ chồng ông BĐ_Phong đo thi hành án dân sự quận BT tạm giữ và căn nhà đã được kê biên. Vợ chồng ông đã đề nghị dược trả tiền tại Thi hành án dân sự quận BT nhằm lấy giấy tờ nhà, đất đê làm thủ tục hợp thức hóa nhưng ông BĐ_Phong không chấp nhận.Vợ chồng ông đề nghị Tòa án nhân dân quận BT kê biên nhà, đất nêu trên.


54/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 596
  • 7

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

14-03-2008
TAND cấp tỉnh

Theo các giấy tờ có trong hồ sơ, thì: Căn nhà tại số 37, quốc lộ 15, phường A, Đặc khu VT - CĐ là tài sản hợp pháp của NĐ_cụ Nha và chồng là Vũ Viết Lãnh, đã được Sở xây dựng đặc khu VT - CĐ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, đất ngày 4/7/1988. Ngày 02/02/1988, cụ Lãnh và NĐ_cụ Nha làm giấy cho con gái BĐ_Vũ Thị Mơ căn nhà này, giấy có xác nhận của Ủy ban nhân dân phường A, Thành phố VT (Ngàỵ 14/3/2002 bà BĐ_Vũ Thị Mơ đã được Ủy ban nhân dân tỉnh BR - VT cấp giấy chứng nhận QSH nhà ở và quyền sử dụng đất ở này, mang số 37A, quốc lộ 51 A, phường A, thành phố VT), Ngày 5/7/1988 cụ Lãnh chết, ngày 1/4/1989 NĐ_cụ Nha và con trai LQ_Vũ Viết Phi ký giấy bán cho vợ chồng ông Cao Sơn Thành, bà Đỗ Thị Hoa phần nhà còn lại (ngày 16/5/1989 ông Thành cũng đã được cấp giấy chủ quyền nhà mang số 256/CNSH). Phía sau căn nhà số 37 nêu trên, NĐ_cụ Nha và cụ Lãnh còn có phần đất vườn khoảng hơn 500m2. Khi bán nhà cho ông Thành, NĐ_cụ Nha làm giấy cam kết cho con trai là LQ_Vũ Viết Phi được quyền hưởng 2/3 giá trị căn nhà và đất vườn còn lại, chia cho LQ_ông Phi 1,8 lượng vàng 24 K (trong số 2,8 lượng vàng bán nhà cho ông Thành), giấy có xác nhận của Ủy ban nhân dân phường A, Thành phố VT (BL 20,21,22). Sau khi bán nhà, NĐ_cụ Nha ở với con gái là BĐ_bà Mơ tại nhà số 37A và được con trai là LQ_Vũ Viết Thần ở nước ngoài gửi tiền về sửa nhà.


21/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 269
  • 12

Tranh chấp thừa kế

10-07-2010

Tháng 6/1996, các con của cụ Thú và cụ Niêm đã thoả thuận chia đất ở tại đường PNL cho bà NĐ_Nguyễn Thị Quý, chị Lê Thị Thưởng và anh Nguyễn Văn Nam mỗi người một lô có chiều ngang 4m giáp gara ông Vọng (thoả thuận không lập thành văn bản), nhưng bà NĐ_Quý, chị Thưởng và anh Nam chưa nhận đất nên ông BĐ_Định, ông BĐ_Song, ông BĐ_Chấn tiếp tục quản lý sử dụng phần đất đã phân chia. Khi bà NĐ_Quý, anh Nam và chị Thưởng xin được nhận đất thì ông BĐ_Định, ông BĐ_Song, ông BĐ_Chấn lại thay đổi ý kiến không đồng ý giao đất. Bà NĐ_Quý yêu cầu chia thừa kế tại sản của cụ Thú, cụ Niêm theo pháp luật, bà xin nhận phần đất như đã thoả thuận năm 1996.