103/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 608
- 18
Nguồn gốc phân đất tranh chấp với ông BĐ_Cao Phước Linh là của cha mẹ ông là cụ Phan Văn Tạc và cụ Đinh Thị Thé để lại cho ông thừa hưởng toàn bộ, ông đã được ủy ban nhân dân huyện CT cấp quyền sử dụng đất vào năm 2001 và được cấp đổi lại vào năm 2007 với diện tích 3.132m2. Gia đình ông BĐ_Cao Phước Linh sử dụng phân đất tranh chấp là do cha mẹ ông cho ở nhờ từ trước năm 1975. Vào năm 2009, đất ông BĐ_Cao Phước Linh bị quy hoạch giải tỏa để mở rộng đường liên xã, ông BĐ_Linh chỉ được nhận phần bồi thường kiến trúc và hoa màu, còn đất là của ông (ông chưa nhận tiền bồi thường đất do đang tranh chấp). Sau quy hoạch gia đình ông BĐ_Linh cất lại nhà trên phần đất của ông mà không hỏi ý kiến của ông. Do ông BĐ_Cao Phước Linh là anh rễ của ông nên ông đồng ý cho gia đình ông BĐ_Cao Phước Linh được tiếp tục sử dụng phần đất có chiều ngang 5,7m, chiều dài 15,5m, ngoài diện tích này ông BĐ_Cao Phước Linh phải di dời toàn bộ tài sản trả lại đất cho ông. Riêng phần đất có ngôi mộ của bà Phan Thị Nuôi thì ông không tranh chấp.
226/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 231
- 6
Vào năm 1998, ông NĐ_Thịnh, bà NĐ_Linh được cha mẹ là cụ BĐ_Nguyễn Văn Đan, cụ Dương Thị Đức cho 04 công đất tọa lạc tại ấp Tân Thành A, xã Tạ An Khương Nam, huyện Dầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Năm 2000 cụ Dương Thị Đức chết, đến năm 2001 cụ BĐ_Nguyễn Văn Đan họp các con thống nhất cắt phần diện tích đất trên cho ông NĐ_Thịnh (ông BĐ_Đan có làm di chúc và được chính quyền địa phương xác nhận) nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Năm 2002 ông NĐ_Thịnh cố phần đất trên cho vợ chồng ông LQ_Ngoan, bà LQ_Ken với giá 40 chỉ vàng 24k, thời hạn 04 năm. Đến khi hết hạn cố đất, ông NĐ_Thịnh chưa có điều kiện chuộc lại đất nên ông LQ_Ngoan, bà LQ_Ken tiếp tục quản lý, sử dụng đất.
535/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 563
- 15
Theo đơn khởi kiện ngày 1/7/2010 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà NĐ_Đào Thị Thủy trình bày: Năm 1978 bà kết hôn với ông Bùi Bằng Kiên là con trai của cụ Bùi Văn Te và cụ BĐ_Hoàng Thị Sinh, cụ Tồ chết năm 2009. Sau khi lấy ông Kiên, vợ chồng bà ở chung với cha mẹ chồng. Năm 1980 vợ chồng bà chuyển ngôi nhà mái dạ đến phần đất của cụ Bùi Văn Kế (em trai cụ Te) để ở nhờ. Năm 1982 Hợp tác xã chia đất giãn dân, vợ chồng bà được chia nửa sào bắc bộ tại khu cổng cầu, thôn Xuân Trạch, Xuân Canh, ĐÀ. Việc cấp đất giãn dân không lập thành văn bản mà Hợp tác xã chỉ gọi các hộ gia đình ra nhận đất. Đợt được cấp đất giãn dân có 4 hộ, gồm vợ chồng bà, hộ ông Trí, ông LQ_Ban và ông Phúc. Phần đất của bà được cấp giáp với đất của ông LQ_Ban, ông Phúc.
168/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 722
- 2
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Trong đơn khởi kiện ngày 13/7/2008 nguyên đơn chị NĐ_Đặng Thị Hạ trình bày: Vào năm 2003, chị có mua đất và làm nhà tại số 12, khu K3, đường NCD, tổ 35, phường AHB, quận ST, thành phố ĐN. Vì điều kiện ở xa nên chị nhờ vợ chồng em gái là Đặng Thị Hòa và Nguyễn Công Sơn trú tại B4 lô 34 đường LHP, phường AHB, quận ST, thành phố ĐN trực tiếp giao dịch mua đất và ký hợp đồng xây dựng nhà với nhà thầu trên lô đất nêu trên với tổng số tiền khoảng 600.000.000đ (sáu trăm triệu đồng). Sau khi làm xong nhà, chị NĐ_Hạ mời bố, mẹ chị là ông BĐ_Thông và bà BĐ_Nhiên (lúc bấy giờ đang sống tại xã HT, huyện HV, thành phố ĐN) đến sống trong ngôi nhà này để gần gũi con cái. Ông BĐ_Thông, bà BĐ_Nhiên đã đề xuất với vợ chồng em gái chị là chị Hòa, anh Sơn để cho ông, bà đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của chị NĐ_Hạ nhằm tạo điều kiện cho ông BĐ_Thông, bà BĐ_Nhiên chuyển hộ khẩu về quận ST và chị Hòa, anh Sơn đã đồng ý.
144/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 473
- 9
Năm 1994 ông bà có gửi về cho bà BĐ_Trương Thị Lệ Nàng (chị của bà NĐ_Thanh) số tiền là 60.000 USD và người bạn tên Olivier Stream cùng gửi 125.000 USD để mua căn nhà số 237 PNL, quận T, thành phố HCM để bà BĐ_Nàng xây dựng làm khách sạn. Đến năm 1996, bà NĐ_Thanh quyết định về Việt Nam để sinh sống nên có gửi tiếp cho bà BĐ_Nàng số tiền 165.210 USD để mua căn nhà số 221 PNL, phường PNL, quận T, thành phố HCM và nhờ bà BĐ_Nàng đứng tên giùm. Bà NĐ_Thanh được biết căn nhà trên bà BĐ_Nàng mua lại của ông Nguyễn Tấn Phát và bà Võ Thị Ngọc Hòa với giá 405 lượng vàng SJC, hiện nay cả ông Phát và bà Hòa đã chết, các con ông Phát và bà Hòa ở đâu bà không rõ. Năm 2000, bà BĐ_Nàng và ông NĐ_Hà xây dựng căn nhà 221 PNL, phường PNL, quận T, thành phố HCM thì bà NĐ_Thanh có gửi về số tiền là 20.000 USD để xây dựng khách sạn. Cả hai khách sạn đều do bà BĐ_Nàng kinh doanh, quản lý.