12/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1266
- 35
Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/5/2005 và các lời khai của chị Nghiêm Thị Bình (con gái bà NĐ_Vy) và của chị Nguyễn Thị Quỳnh Mai đều là đại diện của nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Vy, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn và đại diện nguyên đơn trình bày: Căn nhà số 19 ngõ Hồ Bãi Cát trên diện tích đất 17,7 m2 thuộc thừa số 178 tờ bản đồ 6H-I-10 là của bà NĐ_Vy (bà NĐ_Vy đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ngày 15/6/2004). năm 1998, bà NĐ_Vy cho con trai là anh BĐ_Nghiêm Xuân Trân vào ở nhờ. Năm 2003, trong khi bà NĐ_Vy đi thăm con tại Canada, anh BĐ_Trân đã ngang nhiên bán căn nhà này cho vợ chồng anh LQ_Chung Quốc Vinh, chị LQ_Nguyễn Thị Tâm. Anh LQ_Vinh tuy biết nhà không phải thuộc sở hữu của anh BĐ_Trân nhưng vẫn cố tình mua. Anh LQ_Vinh, anh BĐ_Trân đã phá nhà cũ và xây lại thành nhà 4,5 tầng và nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh BĐ_Trân, anh LQ_Vinh trả lại nhà đất và bà NĐ_Vy sẽ thanh toán cho anh LQ_Vinh, anh BĐ_Trân 50% giá trị xây dựng nhà.
23/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 236
- 4
Chị Dương Thị Hằng và anh Phạm Văn Theo được gia đình tổ chức lễ cưới và sống với nhau vào năm 1992. Sau ngày cưới gia đình bên chồng cho ra riêng sử dụng diện tích 1.198,5m2 thửa số 264 và có mua của ông Út diện tích 995,32m2 đất lúa tại thửa 966B. Do trong quá trình sống chung có mâu thuẫn xảy ra, chị Hằng và anh Theo ly thân sau đó chị Hằng làm đơn ly hôn, do không có đăng ký kết hôn nên Tòa án không công nhận hôn nhân, chỉ xét xử phần con cái và cấp dưỡng nuôi con.
21/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 324
- 4
Theo nguyên đơn anh Nguyễn Phương Bình trình bày: Anh và chị Huệ chung sống với nhau có một đứa con chung tên Nguyễn Quốc An, sinh ngày: 20/10/2002. Vào năm 2004 anh, chị thuận tình ly hôn nhau do Tòa án nhân dân huyện Cầu Ngang giải quyết, con chung giao cho chị Huệ nuôi anh không có cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị Huệ đã có chồng khác và có con riêng bỏ con anh cho bên ngoại nuôi dưỡng chăm sóc không chu đáo, bé An 04 tuổi nhưng chưa được đi học. Bên ngoại cháu lại muốn chia cắt tình cha con anh. Nên anh yêu cầu thay đổi quyền nuôi con cho anh được nuôi bé An mà không cần chị Huệ cấp dưỡng nuôi con.
182/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 300
- 6
Tại Bản tự khai ngày 10/06/2005, 26/09/2005 và ngày 25/11/2005 và các Biên bản hòa giải ngày 29/09/2005, 26/10/2005 và ngày 15/11/2005 nguyên đơn bà Huỳnh Thị Anh Đào yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng là trị giá nền đất thổ cư thuộc lô 1A3 đường HV có giá trị 600.600.000đ mà vợ chồng được nhận thuộc diện tái định cư theo quyết định số 207 ngày 25/08/2004 của Ủy Ban nhân dân Thành phố LX, về số tiền 61.648.000đ được hỗ trợ di dời hiện ông Tín giữ. Bà yêu cầu tài sản này phải chia đôi, bà xin nhận hiện vật. Bà xác định tiền đóng lô 1A3 cho Ủy ban nhân dân thành phố LX là 91.520.000đ. Về nợ chung: Bà xác định vợ chồng chỉ có nợ ông Long là 2.600.000đ còn các khoản nợ khác bà không thừa nhận.
09/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1310
- 19
Tài sản của cố Tào để lại là 1 mẫu đất theo Địa bộ kiến điền năm 1963 là các thửa 320, 321, 322, 323 thuộc tờ bản đồ số 15 xã VH, quận Vĩnh Xương, tỉnh KH. Ngày 21/4/1969, cụ Hứa Phong, cụ Nguyễn Thị Tý và ông Hứa Trạch (con cụ Hứa Văn Tống và cụ Tý), ông BĐ_Hứa Đức Tú đứng ra lập tờ tương phân chia tài sản của cố Tào trong đó ông BĐ_Hứa Đức Tú đại diện cho các thừa kế của cụ Hứa Tống được chia: - Phần phượng tự cố Trần Thị Tào mang số 320, phần phượng tự này giao cho ông BĐ_Hứa Đức Tú trọn quyền hưởng dụng và trách nhiệm cúng giỗ hàng năm vào ngày 27-28/10 âm lịch và được quyền truyền tử lưu tôn vĩnh viễn (trừ trường hợp không có con cháu thừa kế). Phần phượng tự này BĐ_Hứa Đức Tú lưu hưởng lâu đời, không được quyền bán trừ trường hợp gia tộc đồng ý và có biên bản. Thửa này có diện tích 1.160m2 (nay là nhà số 60, tổ 3, đường X, Đông Nam, phường VH).