112/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 276
- 1
Theo đơn khởi kiện ngày 5/9/2005 nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Văn Khoa trình bày: Năm 1959, cha mẹ ông lập di chúc chia tài sản cho các con (có xác nhận của chính quyền chế độ cũ). Theo di chúc ông được hưởng 1,6 công đất (1.600m2) trên đất có căn nhà hương quả (tại ấp 4, xã APT, huyện BT). Do lúc được chia đất ông còn đi học nên chị gái là bà Nguyễn Thị Mừng quản lý và sử dụng. Năm 1967, vợ chồng bà Mừng lén bán căn nhà hương quả trên đất cho bà Võ Thị Đâu và cho bà Đâu thuê đất với thời hạn 15 năm (1967 đến 1982).
144/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 539
- 9
Năm 1994 ông bà có gửi về cho bà BĐ_Trương Thị Lệ Nàng (chị của bà NĐ_Thanh) số tiền là 60.000 USD và người bạn tên Olivier Stream cùng gửi 125.000 USD để mua căn nhà số 237 PNL, quận T, thành phố HCM để bà BĐ_Nàng xây dựng làm khách sạn. Đến năm 1996, bà NĐ_Thanh quyết định về Việt Nam để sinh sống nên có gửi tiếp cho bà BĐ_Nàng số tiền 165.210 USD để mua căn nhà số 221 PNL, phường PNL, quận T, thành phố HCM và nhờ bà BĐ_Nàng đứng tên giùm. Bà NĐ_Thanh được biết căn nhà trên bà BĐ_Nàng mua lại của ông Nguyễn Tấn Phát và bà Võ Thị Ngọc Hòa với giá 405 lượng vàng SJC, hiện nay cả ông Phát và bà Hòa đã chết, các con ông Phát và bà Hòa ở đâu bà không rõ. Năm 2000, bà BĐ_Nàng và ông NĐ_Hà xây dựng căn nhà 221 PNL, phường PNL, quận T, thành phố HCM thì bà NĐ_Thanh có gửi về số tiền là 20.000 USD để xây dựng khách sạn. Cả hai khách sạn đều do bà BĐ_Nàng kinh doanh, quản lý.
768/2011/DS-GĐT: Tòa cấp sơ thẩm và phúc thẩm hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng suất tái định cư Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3039
- 43
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng suất tái định cư
Nhà nước chỉ cho phép chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai trong các dự án phát triển nhà ở, chưa cho phép chuyển nhượng tiêu chuẩn đất tái định cư trong dự án xây dựng khu đô thị mới và khu phục vụ tái định cư. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền được hưởng tiêu chuẩn tái định, Giấy uỷ quyền ngày 15/8/2005 giữa bà NĐ_Nhung với ông BĐ_Thanh là có căn cứ.
360/2016/DS-ST: Yêu cầu hủy di chúc Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1234
- 18
Tại đơn khởi kiện bổ sung nguyên đơn trình bày như sau: Căn cứ vào nội dung và di nguyện của người quá cố để lại phần diện tích đất nêu trên để thờ cúng thì phần đất bà Nguyễn Thị Phi để lại chưa chia, các thừa kế chỉ có quyền quản lý vào mục đích duy nhất là thờ cúng. Trên cơ sở đó quyền sử dụng đất nêu trên không thuộc quyền thừa kế của bên nào. Việc bà Nguyễn Thị Thứ liên hệ Ủy ban nhân dân phường TX, Quận X, Thành phố HCM xin xác nhận di chúc để lại phần đất cho các con là bất hợp pháp, trái với nội dung bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố HCM đã tuyên. Vì vậy, nguyên đơn đã có đơn khởi kiện bổ sung, yêu cầu Tòa án hủy toàn bộ nội dung bản di chúc ngày 08/12/2010 do Ủy ban nhân dân phường TX, Quận X, Thành phố HCM xác nhận.
360/2016/DS-ST: Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3127
- 63
Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa kế
Đến khoảng năm 1994, bà Phi quyết định phân chia đất nêu trên cho các con trong gia đình. Bà Phi đã phân chia đất cho cháu nội là bà NĐ_Nguyễn Thị Đương đại diện cho ông Nguyễn Văn Tiên 20 cao đất, cho bà NĐ_Nguyễn Thị Bốn 20 cao đất, cho bà Nguyễn Thị Thứ 20 cao đất và mọi người đều nhận đất do bà Phi cho. Phần đất còn lại là 15 cao đất, bà Phi tiếp tục sử dụng và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất còn lại này chính là phần đất hiện nay có diện tích 1.407,4m2, tại thửa đất số 92, 95, 96, 97, tờ bản đồ số 23, Bộ địa chính phường TX, Quận X (Theo tài liệu năm 2005). Khi còn sống bà Phi có lập tờ “Phân chia ruộng đất” với mục đích là để lại phần đất còn lại sau khi đã chia cho các con cháu, hiện nay còn lại diện tích là 1.407,4m2 tại thửa đất số 92, 95, 96, 97, tờ bản đồ số 23 Bộ địa chính phường TX, Quận X, Thành phố HCM (theo tài liệu 2005) là để phần đất này làm hương hỏa, không ai có quyền bán, ai quản lý sử dụng phần đất này phải lo cúng giỗ ông bà.