cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

09/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 470
  • 8

Tranh chấp thừa kế

10-03-2010

Ông Nam và bà Kim Anh tạo lập được căn nhà số 215A NTL, quận BT, thành phố HCM. Bà Kim Anh chết ngày 01/3/1993 không để lại di chúc. Sau khi bà Kim Anh chết, ông Nam tạo lập thêm được căn nhà số 179/2A NTL, 01 xe ô tô 4 chỗ hiệu Mercedes và một số đồ dùng sinh hoạt. Ngày 10/10/1995, ông Nam lập di chúc chia thừa kế cho 6 người con chung của ông với bà Kim Anh 2/3 giá trị căn nhà 215A NTL, còn lại 1/3 giá trị nhà 215A NTL giao cho chị LQ_Vũ Thị Kim Lài quản lý, sử dụng, dùng một phần để thờ cúng tổ tiên, một phần để chia cho 3 con riêng của ông Nam với bà LQ_Vũ Thị Kim Liễu là anh LQ_Hào, chị LQ_Phụng và chị LQ_Hằng (khi anh LQ_Hào, chị LQ_Phụng, chị LQ_Hằng đến tuổi trưởng thành).


44/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 195
  • 6

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

24-12-2008

Tại đơn khởi kiện đề ngày 25-5-2001 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Trần Văn Tuấn trình bày: Năm 1967 cụ Trần Thị Bảy (mẹ của ông) và cụ Phạm Ngọc Tri (cha dượng của ông) mua căn nhà LG 76/4 đường Hàm Nghi, thành phố BH, tỉnh ĐN (nay là nhà số 68/2 khóm 2, đường CMTT, phường QT; sau đây gọi tắt là nhà số 68/2 đường CMTT); năm 1977 cụ Tri và cụ Bảy ngăn nhà bằng ván ép để cho bà BĐ_Hữu ở nhờ, đồng thời có nhận của bà BĐ_Hữu 460 đồng là tiền cầm cố và thoả thuận miệng là khi ông hoàn thành nghĩa vụ trở về hoặc khi các em của ông lớn khôn thì bà BĐ_Hữu phải chuyển đi nơi khác; sau khi thỏa thuận cụ Bảy có đưa cho bà BĐ_Hữu giữ giấy “mua bán nhà không đất" giữa cụ Bảy với bà Xinh năm 1971; năm 1978 cụ Tri chết; năm 1979 (sau khi xuất ngũ) ông đã yêu cầu bà BĐ_Hữu trả nhà và gia đình ông trả số tiền đã nhận cho bà BĐ_Hữu, nhưng bà BĐ_Hữu không đồng ý


44/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1046
  • 28

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và đòi lại nhà cho ở nhờ

24-12-2008

Tại đơn khởi kiện đề ngày 25-5-2001 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Trần Văn Tuấn trình bày: Năm 1967 cụ Trần Thị Bảy (mẹ của ông) và cụ Phạm Ngọc Tri (cha dượng của ông) mua căn nhà LG 76/4 đường Hàm Nghi, thành phố BH, tỉnh ĐN (nay là nhà số 68/2 khóm 2, đường CMTT, phường QT; sau đây gọi tắt là nhà số 68/2 đường CMTT); năm 1977 cụ Tri và cụ Bảy ngăn nhà bằng ván ép để cho bà BĐ_Hữu ở nhờ, đồng thời có nhận của bà BĐ_Hữu 460 đồng là tiền cầm cố và thoả thuận miệng là khi ông hoàn thành nghĩa vụ trở về hoặc khi các em của ông lớn khôn thì bà BĐ_Hữu phải chuyển đi nơi khác; sau khi thỏa thuận cụ Bảy có đưa cho bà BĐ_Hữu giữ giấy “mua bán nhà không đất" giữa cụ Bảy với bà Xinh năm 1971; năm 1978 cụ Tri chết; năm 1979 (sau khi xuất ngũ) ông đã yêu cầu bà BĐ_Hữu trả nhà và gia đình ông trả số tiền đã nhận cho bà BĐ_Hữu, nhưng bà BĐ_Hữu không đồng ý