cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

183/2013/DS-GĐT: Đòi lại nhà cho ở nhờ Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1121
  • 45

Đòi lại nhà cho ở nhờ

30-11--0001

Ngày 21/07/1972, vợ chồng ông bà có nhận sang nhượng một lô đất có diện tích 1019 m2 (10m x 101,9m), tại số địa bộ cũ 87, số địa bộ mới 247, lô số 1, bản đồ EM16 xã An Lộc, quận Xuân Lộc, tỉnh LK (nay là phường XB, thị xã LK, tỉnh ĐN) của bà Huỳnh Kim Liễu với giá 200.000đ. Đến ngày 15/03/1973, ông xin tách phần đăng ký cộng hữu và ngày 08/12/1973, ông được Tỉnh trưởng tỉnh LK đồng ý cho ông mở garage sửa chữa xe hơi tại thửa đất địa bộ EM 16 (cổng số 2) lấy tên “Minh Hiệp”, đồng thời ông xây dựng phân xưởng, nhà ở và đưa cha mẹ và các em về chung sống. Vì trong gia đình có đông anh em và chưa có nhà nên ông xây ngăn ra nhiều phòng để tiện việc sinh hoạt cho từng gia đình. Cụ thể, gia đình ông Phạm Văn Thụy (bà BĐ_Mai Thị Tú) ở căn đầu tiên, tiếp đến là gia đình ông Phạm Văn Thúy, kế tiếp là gia đình ông, còn cha mẹ và các em: Phạm Thị Quý, Phạm Văn Học, Phạm Thị Hóa chưa lập gia đình nên cùng ở trên gác. Thu nhập chính của gia đình dựa vào garage do các anh em cùng làm, giao cho cô Quý quản lý sổ sách, tiền bạc thu, chi trong garage và toàn bộ chi phí trong gia đình.


201/2014/DS-GĐT: Tranh chấp tài sản gắn liền với đất và đòi bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 390
  • 8

Tranh chấp tài sản gắn liền với đất và đòi bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm

23-05-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 29/6/2009 và trong quá trình tố tụng, ông NĐ_Hoàng Văn Vũ trình bày: Khu rừng đang tranh chấp gia đình ông sử dụng từ lâu. Năm 1995, ủy ban nhân dân huyện CL đã giao quyền quản lý, sử dụng (theo quyết định 529 ngày 3/8/1995 cấp cho cha ông là Hoàng Đình Phong) diện tích l,5ha, tiểu khu 337, khoảnh số 228. Năm 2002, cha ông mất nên ông tiếp tục quản lý sử dụng. Đến năm 2009, thì ông BĐ_Kim và ông BĐ_Chương tranh chấp cho rằng đất của hai ông, lúc này ông mới biết năm 2003 giữa ông BĐ_Chương và ông BĐ_Kim tranh chấp nhau về ranh đất và hội đồng hòa giải ở thôn đã công nhận ranh giới đất theo thỏa thuận của ông BĐ_Chương và ông BĐ_Kim, khi hòa giải thôn không báo cho gia đình ông nên ông không biết việc tranh chấp ranh đất giữa ông BĐ_Chương và ông BĐ_Kim; đến năm 2006 ủy ban nhân dân xã đã đo đạc lập bản đồ đất cho ông BĐ_Chương và ông BĐ_Kim. Ông không đồng ý vì đất này đã cấp cho gia đình ông từ năm 1995.


51/2014/DS-GĐT: Tranh chấp đòi di sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 470
  • 3

Tranh chấp đòi di sản

20-02-2014

Năm 1938, cụ Hoàng Ngọc Bách là cha đẻ của các đồng nguyên đơn có mua 01 căn nhà diện tích 36m2 trên diện tích đất 1.228m2 thuộc thửa 331, tờ bản đồ 05 tại thôn Hội Yên, xã HQ, huyện HL, tỉnh QT. Năm 1972, gia đình cụ Bách chuyển vào Đà Nẵng chạy giặc. Năm 1973, bà Hoàng Thị Bê quay về sinh sống tại địa chỉ trên cho đến năm 1975 bị tai nạn chết. Cuối tháng 8 năm 1975, Cụ Bách cho cháu là ông Hoàng Ngọc Thoan ở nhờ căn nhà trên, sau đó ông Thoan cho chị dâu là bà BĐ_Phạm Thị Hiếu đến ở còn mình chuyển vào miền Nam sinh sống. Từ năm 2003, các nguyên đơn đã yêu cầu bà BĐ_Hiếu trả lại tài sản trên, bà BĐ_Hiếu công nhận nhà và đất có nguồn gốc là của cụ Bách nhưng không chấp nhận trả lại. Nay các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà BĐ_Hiếu trả lại di sản của cụ Bách và đồng ý hỗ trợ bà BĐ_Hiếu chuyển đến nơi khác 30.000.000 đồng.


115/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 928
  • 19

Tranh chấp quyền sử dụng đất

25-03-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 20/1/2010 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Mạnh, bà NĐ_Miên trình bày: cha mẹ ông NĐ_Mạnh (là cụ Nguyễn Đính và cụ Nguyễn Thị Chấn) chết có để lại cho vợ chồng ông bà một thửa đất thổ cư khoảng 3 sào tương đương 1.500m2 (có tứ cận). Ở phía nam của thửa đất ông bà có xây dựng một ngôi nhà cách tường nhà ông Bảy 1,8m dùng để buôn bán nhỏ và sửa xe đạp. Ngày 20/4/1989 vợ chồng ông bà bán ngôi nhà này gắn liền với 80m2 đất cho bà Đào Thị Giàu (chị ruột bà NĐ_Miên) với giá 160.000 đồng. Hai bên xác lập giấy mua bán viết tay, không có chứng thực. Trong giấy mua bán có thỏa thuận, sau này bà Giàu không có nhu cầu sử dụng nữa thì sẽ nhượng lại cho ông bà.


104/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 452
  • 3

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

18-03-2014

Đơn khởi kiện ngày 21/8/2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Phạm Ngọc Thu và bà NĐ_Lê Thị Lý trình bày: Năm 1998, vợ chồng ông BĐ_Bảo, bà BĐ_Na chuyển nhượng cho vợ chồng ông NĐ_Thu, bà NĐ_Lý 500m2 đất tại thôn 1, xã CE, thành phố BMT với giá là 5.000.000 đồng. Việc chuyển nhượng có xác nhận của UBND xã, các bên đã giao đủ tiền và nhận đất.Vợ chồng ông NĐ_Thu đã nhiều lần yêu cầu làm thủ tục sang tên, nhưng vợ chồng ông BĐ_Bảo không thực hiện. Do đó, ông NĐ_Thu và bà NĐ_Lý khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Bảo và bà BĐ_Na phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong đó có 100m2 đất thổ cư và 400m2 đất nông nghiệp và chịu mọi chi phí phát sinh khi làm thủ tục sang tên cho ông NĐ_Thu, bà NĐ_Lý.