186/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2007
- 79
Theo đơn khởi kiện ngày 01/4/2009 và trong quá trình tố tụng, ông NĐ_Lê Văn Tú và bà NĐ_Đỗ Thị Xuân Thoan trình bày: Ngày 4/5/1989 ông bà có nhận chuyển nhượng của ông Đỗ Duy Hồng, bà Nguyễn Thị Kim Phượng và bà Đỗ Thị Xuân Ba nhà và đất tại số 207 LTĐ. Nhà có chiều ngang 5m, chiều dài 28m nằm trên thửa đất có chiều ngang 5m, chiều dài 48m, phần đất phía sau bỏ trống. Gia đình ông BĐ_Hà Văn Thịnh có nhà đất kế bên ở phía Đông nhà đất của ông đã lấn chiếm 12m2 tại vị trí phía Đông Bắc đất của ông bà. Khi phát hiện đất bị lấn chiếm ông bà đã khiếu nại đến ủy ban nhân dân phường Trần Hưng đạo hòa giải nhưng không thành. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Thịnh trả 12m2 đất lấn chiếm.
165/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1442
- 37
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Năm 1996, bà NĐ_Hoa chuyển nhượng 600m2 đất cho anh BĐ_Linh và chị BĐ_Tuấn giá 10 chỉ vàng 24k; lúc này đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên hai bên chỉ làm giấy tay, ông NĐ_Ngân và bà NĐ_Hoa đứng tên trong sổ bộ đất, hai bên đã giao vàng và đất xong nhưng không có làm biên nhận, hai bên thỏa thuận chi phí làm thủ tục chuyển nhượng do anh BĐ_Linh và chị BĐ_Tuấn chịu, anh BĐ_Linh và chị BĐ_Tuấn đã sử dụng diện tích đất này từ đó đến nay. Khoảng tháng 9, 10/1995 gia đình ông NĐ_Ngân có cho ông LQ_Ngà, bà LQ_Linh mượn diện tích đất là 1.600m2 tọa lạc tại tổ 35, khóm 4, phường 6, thành phố CL để cố cho vợ chồng anh BĐ_Nguyễn Văn Linh, chị BĐ_Trần Thị Tuấn giá 25 chỉ vàng 24k và thỏa thuận khi nào có vàng sẽ chuộc lại đất. Việc thỏa thuận cầm cố không có làm giấy tờ.
156/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 859
- 21
Theo đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo tại Tòa án, nguyên đơn cụ NĐ_Bùi Thị Dương trình bày: Năm 1969, cụ NĐ_Dương mua một phần đất của cụ Võ Văn Mười là cha của ông BĐ_Võ Văn Tính gồm phần đất thổ cư diện tích 190m2 và phần đất ao có diện tích ngang khoảng 6m, dài 26m (khoảng 156m2) với giá 3000 đồng. Phần đất này tọa lạc tại ấp Phú Ninh, xã SP, huyện TB, tỉnh VL. Việc mua bán không làm giấy tờ chỉ nói miệng. Sau đó, cụ NĐ_Dương đã nhận đất quản lý, sử dụng cho đến nay. Cụ NĐ_Dương đã tiến hành kê khai đăng ký quyền sử dụng đất nhưng khi được cấp giấy chứng nhận thì chỉ được cấp giấy chứng nhận đối với phần đất thổ cư, còn phần đất ao chưa được cấp giấy chứng nhận.
155/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 704
- 15
Nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Đương do chị Nguyễn Thị Chon đại diện trình bày: Thửa đất số 547, tờ bản đồ số 27 có diện tích 2.432m2 tọa lạc tại xã MHB hiện anh BĐ_Nguyễn Văn Mẫn (con bà NĐ_Đương) đang quản lý và đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ủy ban nhân dân huyện ĐH cấp ngày 27/5/2005 là của vợ chồng bà NĐ_Nguyễn Thị Đương và ông Nguyễn Văn Hoanh khai khẩn và sử dụng từ trước giải phóng. Năm 1991, ông Hoanh chết, bà NĐ_Đương với con gái là Nguyễn Thị Chon tiếp tục sử dụng. Đến năm 2000, chị Chon có gia đình và theo chồng, lúc này ông BĐ_Mẫn có hỏi bà NĐ_Đương xin canh tác, bà NĐ_Đương đồng ý và sau đó ông BĐ_Mẫn tự đi đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
103/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 608
- 18
Nguồn gốc phân đất tranh chấp với ông BĐ_Cao Phước Linh là của cha mẹ ông là cụ Phan Văn Tạc và cụ Đinh Thị Thé để lại cho ông thừa hưởng toàn bộ, ông đã được ủy ban nhân dân huyện CT cấp quyền sử dụng đất vào năm 2001 và được cấp đổi lại vào năm 2007 với diện tích 3.132m2. Gia đình ông BĐ_Cao Phước Linh sử dụng phân đất tranh chấp là do cha mẹ ông cho ở nhờ từ trước năm 1975. Vào năm 2009, đất ông BĐ_Cao Phước Linh bị quy hoạch giải tỏa để mở rộng đường liên xã, ông BĐ_Linh chỉ được nhận phần bồi thường kiến trúc và hoa màu, còn đất là của ông (ông chưa nhận tiền bồi thường đất do đang tranh chấp). Sau quy hoạch gia đình ông BĐ_Linh cất lại nhà trên phần đất của ông mà không hỏi ý kiến của ông. Do ông BĐ_Cao Phước Linh là anh rễ của ông nên ông đồng ý cho gia đình ông BĐ_Cao Phước Linh được tiếp tục sử dụng phần đất có chiều ngang 5,7m, chiều dài 15,5m, ngoài diện tích này ông BĐ_Cao Phước Linh phải di dời toàn bộ tài sản trả lại đất cho ông. Riêng phần đất có ngôi mộ của bà Phan Thị Nuôi thì ông không tranh chấp.