cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

186/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1866
  • 79

Tranh chấp quyền sử dụng đất

13-05-2014

Theo đơn khởi kiện ngày 01/4/2009 và trong quá trình tố tụng, ông NĐ_Lê Văn Tú và bà NĐ_Đỗ Thị Xuân Thoan trình bày: Ngày 4/5/1989 ông bà có nhận chuyển nhượng của ông Đỗ Duy Hồng, bà Nguyễn Thị Kim Phượng và bà Đỗ Thị Xuân Ba nhà và đất tại số 207 LTĐ. Nhà có chiều ngang 5m, chiều dài 28m nằm trên thửa đất có chiều ngang 5m, chiều dài 48m, phần đất phía sau bỏ trống. Gia đình ông BĐ_Hà Văn Thịnh có nhà đất kế bên ở phía Đông nhà đất của ông đã lấn chiếm 12m2 tại vị trí phía Đông Bắc đất của ông bà. Khi phát hiện đất bị lấn chiếm ông bà đã khiếu nại đến ủy ban nhân dân phường Trần Hưng đạo hòa giải nhưng không thành. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Thịnh trả 12m2 đất lấn chiếm.


183/2013/DS-GĐT: Đòi lại nhà cho ở nhờ Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1034
  • 44

Đòi lại nhà cho ở nhờ

30-11--0001

Ngày 21/07/1972, vợ chồng ông bà có nhận sang nhượng một lô đất có diện tích 1019 m2 (10m x 101,9m), tại số địa bộ cũ 87, số địa bộ mới 247, lô số 1, bản đồ EM16 xã An Lộc, quận Xuân Lộc, tỉnh LK (nay là phường XB, thị xã LK, tỉnh ĐN) của bà Huỳnh Kim Liễu với giá 200.000đ. Đến ngày 15/03/1973, ông xin tách phần đăng ký cộng hữu và ngày 08/12/1973, ông được Tỉnh trưởng tỉnh LK đồng ý cho ông mở garage sửa chữa xe hơi tại thửa đất địa bộ EM 16 (cổng số 2) lấy tên “Minh Hiệp”, đồng thời ông xây dựng phân xưởng, nhà ở và đưa cha mẹ và các em về chung sống. Vì trong gia đình có đông anh em và chưa có nhà nên ông xây ngăn ra nhiều phòng để tiện việc sinh hoạt cho từng gia đình. Cụ thể, gia đình ông Phạm Văn Thụy (bà BĐ_Mai Thị Tú) ở căn đầu tiên, tiếp đến là gia đình ông Phạm Văn Thúy, kế tiếp là gia đình ông, còn cha mẹ và các em: Phạm Thị Quý, Phạm Văn Học, Phạm Thị Hóa chưa lập gia đình nên cùng ở trên gác. Thu nhập chính của gia đình dựa vào garage do các anh em cùng làm, giao cho cô Quý quản lý sổ sách, tiền bạc thu, chi trong garage và toàn bộ chi phí trong gia đình.


165/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1292
  • 37

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

30-11--0001

Năm 1996, bà NĐ_Hoa chuyển nhượng 600m2 đất cho anh BĐ_Linh và chị BĐ_Tuấn giá 10 chỉ vàng 24k; lúc này đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên hai bên chỉ làm giấy tay, ông NĐ_Ngân và bà NĐ_Hoa đứng tên trong sổ bộ đất, hai bên đã giao vàng và đất xong nhưng không có làm biên nhận, hai bên thỏa thuận chi phí làm thủ tục chuyển nhượng do anh BĐ_Linh và chị BĐ_Tuấn chịu, anh BĐ_Linh và chị BĐ_Tuấn đã sử dụng diện tích đất này từ đó đến nay. Khoảng tháng 9, 10/1995 gia đình ông NĐ_Ngân có cho ông LQ_Ngà, bà LQ_Linh mượn diện tích đất là 1.600m2 tọa lạc tại tổ 35, khóm 4, phường 6, thành phố CL để cố cho vợ chồng anh BĐ_Nguyễn Văn Linh, chị BĐ_Trần Thị Tuấn giá 25 chỉ vàng 24k và thỏa thuận khi nào có vàng sẽ chuộc lại đất. Việc thỏa thuận cầm cố không có làm giấy tờ.


157/2014/DS-GĐT: Tranh chấp lối đi Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1059
  • 37

Tranh chấp lối đi

18-04-2014

Năm 1985, ông NĐ_Thịnh nhận chuyển nhượng lại của bà Cát một phần đất tại thửa 337 tờ bản đồ 02 xã CĐ, huyện LT, tỉnh ĐN và cất nhà ở cho đến nay. Khi nhận chuyển nhượng, diện tích đất này có lối đi ra đường lộ xã ngang qua đất nhà vợ chồng ông Nguyễn Xuân Huấn (chết năm 2007), bà BĐ_Đào Thị Minh. Gia đình ông NĐ_Thịnh đã sử dụng lối đi này trong sinh hoạt hàng ngày. Năm 1996, ông NĐ_Thịnh đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2008, bà BĐ_Minh rào đất bít lối đi nên ông NĐ_Thịnh phải đi tạm qua đất người khác.


154/2014/DS-GĐT: Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1106
  • 48

Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

18-04-2014

Nhưng sau khi nhận cọc và tiến hành các thủ tục ký kết hợp đồng thì cơ quan quản lý đô thị cho biết chỉ giới xây dựng đường HVT là 8m, vị trí hẻm dưới bên hông nhà là 3m. Vị trí này khi xây dựng phải vạt góc theo quy chuẩn để đảm bảo tầm nhìn là 3m x 3m, nên phía bà NĐ_Nga và ông NĐ_Văn cho rằng phần đất trên khi xây dựng sẽ bị mất diện tích phía trước và phía hông so với hiện trạng thực tế do nằm trong lộ giới và hẻm giới. Nhưng khi thỏa thuận giao kết và đặt cọc, phía ông BĐ_Sinh và bà BĐ_Linh không cung cấp thông tin này cho bà NĐ_Nga và ông NĐ_Văn biết, từ đó bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn cho là bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn bị nhầm lẫn nên yêu cầu tòa án hủy bỏ giao kết hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 02/4/2010 giữa bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn với bà BĐ_Linh, ông BĐ_Sinh; đồng thời buộc bà BĐ_Linh, ông BĐ_Sinh trả lại 200.000.000 đồng tiền đặt cọc cho bà NĐ_Nga, ông NĐ_Văn.