100/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 312
- 4
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Nguyên đơn - ông NĐ_Nguyễn Minh Hân trình bày: Vợ chồng anh BĐ_Vũ Hoàng Dân, chị BĐ_Nguyễn Thị Kiều Vy được cha là ông BĐ_Vũ Văn Tuấn và mẹ là bà BĐ_Thân Thị Đinh cho một phần đất ruộng, nhưng chưa sang tên, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà BĐ_Đinh vẫn còn đứng tên. Vào năm 2005 vợ chồng anh BĐ_Dân, chị Vân có vay của ông 05 lượng vàng SJC, lãi suất 150.000 đồng/lượng/tháng; 2.050 USD, lãi suất 600.000 đồng/tháng và hứa khi nào bán đất sẽ trả nợ. Do không trả được nợ nên vợ chồng anh BĐ_Dân, chị Vân thỏa thuận chuyển nhượng 1.464m2 đất cho ông để cấn trừ nợ thông qua bà BĐ_Đinh. Ngày 21/3/2006, bà BĐ_Đinh ký hợp đồng chuyển nhượng 1.464m2 đất cho ông, với giá 67.500.000 đồng, ông đã trả đủ tiền chuyển nhượng đất (Cụ thể: Ông cấn trừ nợ 01 lượng vàng SJC và 2.050USD quy đổi 42.400.000 đồng và trả thêm cho vợ chồng anh BĐ_Dân, chị Vân 15.500.000 đồng và 01 lượng vàng SJC quy đổi 9.600.000 đồng), ông đã nhận đất sử dụng nhưng chưa làm thủ tục sang tên.
100/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1422
- 17
Sau khi cụ Thiềm chết, ông NĐ_Hòa, bà BĐ_Tý và bà BĐ_Hên đã tự phân chia căn nhà thành 3 phần để ở. Ngày 18/10/1992, bà BĐ_Tý bán phần nhà đang sử dụng cho bà LQ_Nguyễn Thị Kiều và ngày 31/10/1993 bà BĐ_Hên bán tiếp phần nhà bà đang ở cho bà LQ_Hà Thùy Loan. Năm 1993, ông NĐ_Hòa khởi kiện yêu cầu chia thừa kế nhà đất của cha mẹ nêu trên theo pháp luật. Việc giải quyết vụ án kéo dài từ năm 1993 đến 1996 và bị tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm năm 1997. Năm 2007, vụ án được thụ lý lại.