cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

235/2016/HSST: Cướp xe mô tô Sơ thẩm Hình sự

  • 348
  • 1

(Điều 133) Vụ án Cướp tài sản

21-09-2016
TAND cấp tỉnh

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh sau khi nêu lại nội dung vụ án, phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với người bị hại và đối với xã hội. Sau khi nêu lên những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo Hoàng Văn Linh, Nguyễn Hiền Vương, Nguyễn Ngọc Vương đã đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Văn Linh từ 08 đến 09 năm tù, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Hiền Vương từ 07 năm đến 08 năm tù và đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Vương từ 08 đến 09 năm tù.


235/2016/HSST: Vụ án Cướp tài sản Sơ thẩm Hình sự

  • 267
  • 4

(Điều 133) Vụ án Cướp tài sản

21-09-2016
TAND cấp huyện

Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn Linh, Nguyễn Hiền Vương, Nguyễn Ngọc Vương phạm tội “Cướp tài sản”. - Áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 133; Điểm p Khoản 1 Điều 46; Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Linh 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2015. - Áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 133; Điểm p Khoản 1 Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hiền Vương 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2015.


25/2015/KDTM-ST: Tranh chấp hợp đồng tín dụng Sơ thẩm Kinh doanh thương mại

  • 924
  • 19

Tranh chấp hợp đồng tín dụng

20-06-2015
TAND cấp huyện

Trong đơn khởi kiện ngày 04/9/2014 và đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện ngày 18/3/2015, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phạm Văn Nam trình bày: Ngày 02/8/2013, bà BĐ_Đỗ Thị Kim Xuân có ký hợp đồng tín dụng số 410663/HĐTD với NĐ_Quỹ Tín dụng nhân dân Châu Minh để vay số tiền 160.000.000 đồng. Thời hạn vay 36 tháng, lãi suất 0,9%/tháng với mục đích vay là bổ sung vốn kinh doanh. Để đảm bảo cho khoản vay, bà BĐ_Xuân ký Hợp đồng thế chấp tài sản số 410663/HĐTC ngày 02/8/2013 để thế chấp Quyền sử dụng quầy sạp và hàng hóa đang kinh doanh số B48 - B49 Tầng hầm Trung tâm TM-DV An Đông (theo Hợp đồng cho thuê điểm kinh doanh có thời hạn số 2082/HĐ-AĐ ngày 11/3/2013 và Hợp đồng cho thuê điểm kinh doanh có thời hạn số 2083/HĐ-AĐ ngày 11/3/2013 được ký kết giữa bà BĐ_Xuân với Ban quản lý Trung tâm Thương mại - Dịch vụ An Đông) cho NĐ_Quỹ Tín dụng nhân dân Châu Minh. Mặc dù việc vay nợ và thế chấp tài sản chỉ có một mình bà BĐ_Xuân ký tên nhưng ông LQ_Hoàng Quốc Vinh (là chồng bà BĐ_Xuân) biết rõ việc vay nợ, đồng thời ông LQ_Vinh cùng với bà BĐ_Xuân sử dụng nguồn vốn vay để kinh doanh. Quá trình thực hiện hợp đồng, bà BĐ_Xuân đã thanh toán số tiền tổng cộng tính đến ngày 23/6/2014 là 39.450.000 đồng (trong đó: vốn gốc là 29.370.000 đồng, tiền lãi là 10.080.000 đồng).


60/2015/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại

  • 585
  • 23

Tranh chấp hợp đồng tín dụng

13-07-2015
TAND cấp huyện

Ngày 19 tháng 12 năm 2014 NĐ_Ngân hàng Thương mại cổ phần A có đơn kiện ông BĐ_Phạm Bá Quang và bà BĐ_Bùi Thị Hồng Thắm tại Toà án nhân dân Quận X, về việc ông BĐ_Quang, bà BĐ_Thắm nợ NĐ_Ngân hàng theo các hợp đồng sau đây: 1. Hợp đồng hạn mức tín dụng số SGN.CN.03.160710/HM ngày 19/7/2010, Hợp đồng tín dụng trung - dài hạn số SGN.CN.03.160710/XDBD ngày 19/7/2010, Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số SGN.CN.03.160710/XDBD/SĐBS-01 ngày 12/7/2012, Hợp đồng sửa đổi, bổ sung số SGN.CN.03.160710/XDBD/SĐBS-02 ngày 30/7/2013 và đã giải ngân cho ông BĐ_Quang, bà BĐ_Thắm bằng khế ước nhận nợ số 82613469 ngày 19/7/2010 chi tiết như sau:


1066/2013/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1330
  • 19

Ly hôn

10-12-2013
TAND cấp huyện

Tại đơn xin ly hôn lập ngày 13/5/2013 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là bà NĐ_Ngô Thị Kiều Oanh trình bày như sau: Bà và ông BĐ_Nguyễn Thái Tín xây dựng gia đình năm 2006, hai bên chung sống tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 19/7/2007 tại Ủy ban nhân dân phường TT, quận TP, Thành phố HCM. Sau khi xây dựng gia đình, bà và ông BĐ_Tín chung sống hạnh phúc được hơn 01 năm. Đến năm 2008, hai bên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông BĐ_Tín không quan tâm lo lắng cho gia đình, ông còn xúc phạm bà vô cớ. Bà có khuyên nhiều nhưng ông BĐ_Tín không nghe, từ đó mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Do không thể chịu đựng nữa nên bà đã bỏ về nhà cha mẹ ruột để sinh sống từ năm 2009 cho đến nay. Nay bà cảm thấy không thể tiếp tục chung sống với ông BĐ_Tín được nữa do thời gian ly thân đã lâu, tình cảm không còn, không thể hàn gắn hạnh phúc nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với chồng tên BĐ_Nguyễn Thái Tín.