cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

124/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1166
  • 29

Tranh chấp thừa kế

23-09-2013

Cố Lê Kim Đích có hai người vợ là cố Phạm Thị Tảo và cố Phạm Thị Sằng; Cố Tảo chết năm 1955; giữa cố Sằng với cô Đích không có con chung, giữa cố Đích và cô Tảo có 7 người con chung là: cụ Lê Kim Tôn (cụ Tôn chết năm 1951 có hai người con là bà NĐ_Lê Thị Kim Thanh và bà LQ_Lê Thị Kim Sa); cụ Lê Kim Năm (chết năm 1990 có 3 người vợ là cụ Thang, cụ Thượng và cụ BĐ_Phạm Thị Ngân và có 13 người con); cụ Lê Kim Thắm; cụ LQ_Lê Thị Kim Ý; cụ Lê Kim Hồng; cụ NĐ_Lê Thị Kim Hằng; cụ Lê Kim Ngọc. Cố Đích chết năm 1992, cố Sằng chết năm 1995. Về tài sản, cố Đích tạo lập được nhà, đất tại thứa sô 748, 749 tờ bản đồ số 02 tại thôn Phú Ann Nam 2, xã DA, huyện DK, tỉnh KH (hiện nay mẹ con cụ BĐ_Ngân đang quản lý sử dụng). Sau khi cố Sẳng chết, cụ BĐ_Ngân đã bán một phần diện tích đất vườn của cố Đích cho ông BĐ_Huỳnh Ngọc Chung. Nên các nguyên đơn yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa cụ BĐ_Ngân với vợ chồng ông BĐ_Huỳnh Ngọc Chung, bà LQ_Trần Thị Ri và yêu cầu chia thừa kế tài sản của cố Đích là nhà đất do mẹ con cụ BĐ_Ngân quản lý sử dụng theo pháp luật.


18/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 3530
  • 156

Đòi lại tiền cọc thực hiện hợp đồng mua bán nhà

08-01-2014
TAND cấp huyện

Do quen biết nên khoảng năm 2007 khi biết vợ chồng bà BĐ_Xu ông BĐ_Khoa có ý định bán hai căn nhà, nhưng cả hai căn nhà đều đang bị thế chấp tại Ngân hàng, nghĩ là mua được giá rẻ nên ông NĐ_Tính hỏi mua và được vợ chồng bà BĐ_Xu ông BĐ_Khoa hứa bán sau khi giải chấp. Vì vậy, khi bà BĐ_Xu cần tiền nói với ông đưa tiền trước để đặt cọc, nhưng do ông NĐ_Tính không đủ tiền đưa một lần, nên lúc bà BĐ_Xu cần tiền ông NĐ_Tính gọi điện về nhà cho em họ là bà LQ_Trần Thị Thu Thủy lấy tiền giao cho bà BĐ_Xu. Khi ở nhà không có tiền thì ông NĐ_Tính hỏi mượn của bạn bè là bà LQ_Nguyễn Thị Lan Cương và bà LQ_Nguyễn Thị Hà để giao cho bà BĐ_Xu. Tông cộng đã giao cho bà BĐ_Xu 1.800.000.000 đồng. Khi giao tiền cho bà BĐ_Xu, bà BĐ_Xu đều viết giấy biên nhận, nhưng lại ghi nhận của những người trực tiếp giao tiền là bà LQ_Thủy, bà LQ_Lan Cương, vì vậy có giấy nợ phần ghi trả tiền cho ai thì chừa trống chưa ghi tên người nhận.


103/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 293
  • 3

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

25-08-2009
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn, bà NĐ_Trần Thị Thủy xác định yêu cầu khởi kiện như sau: Ngày 21/6/2007, bà có cho bà BĐ_Trần Thị Nhiên vay 5.000.000 đồng để bà BĐ_Nhiên trả nợ Ngân hàng Chính sách Xã hội Tỉnh. Khi vay, bà BĐ_Nhiên có viết giấy vay và hẹn 15 ngày sau sẽ trả. Theo giấy nợ thì không ghi thoả thuận lãi suất nhưng hai bên có thoả thuận bằng miệng là lãi tính theo ngày, cứ một ngày là 15.000 đồng tiền lãi trên số nợ 5.000.000 đồng. Thế nhưng, 15 ngày sau khi vay bà BĐ_Nhiên không trả vốn và trả lãi theo như thỏa thuận nêu trên, đòi nợ nhiều lần không được, bà NĐ_Thủy đã gửi đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân xã LP hoà giải. Đến ngày 19/6/2008, bà NĐ_Thủy có Đơn khởi kiện yêu cầu Toà án xử buộc bà BĐ_Nhiên hoàn trả số nợ gốc 5.000.000 đồng và lãi suất từ khi vay cho đến nay.