09/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2111
- 31
Khi cụ Trương Công Nghế và cụ Đỗ Thị Hiển còn sống đã cho bố anh là ông Trương Công Chế nhà cấp 4 trên diện tích 94m2. Năm 1993 ông Chế chết, cụ Nghế, cụ Hiển nói với mọi người là cho anh nhà đất này. Sau khi cụ Nghế, cụ Hiển mất, anh chưa kịp làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nên ngày 26/11/2001 các thừa kế của cụ Nghế, cụ Hiển là bà BĐ_Trương Thị My, ông Trương Quang Tiến, bà BĐ_Trương Thị Hà, bà Trương Thị Hòa đã họp để phân chia đất thổ cư do cụ Nghế, cụ Hiển đê lại theo nguyện vọng của các cụ là nhà đất trên diện tích 94m2 thì giao cho anh NĐ_Trương Quang Khang, nhà đất trên diện tích 147,6m2 thì giao cho ông Trương Quang Tiến.
215/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1403
- 24
Yêu cầu xác nhận quyền thừa kế
Cụ Nghế chết năm 1994 Cụ Hiển chết năm 1993. Khi chết hai cụ không để lại di chúc. Di sản để lại gồm: - Một căn nhà cấp 3, xây năm 1988 diện tích 69,6m2 và công trình phụ tọa lạc trên thửa đất 147,6m2 tại thửa 106, tờ bản đồ số 41 hiện do chị LQ_Dương Thị Soài (vợ của ông Trương Quang Tiến quản lý sử dụng). - Một căn nhà cấp 4, xây năm 1990 diện tích 16m2 tọa lạc trên thửa đất 123,6m2 tại thửa 96 tờ bản đồ số 41 do anh NĐ_Trương Quang Khôi quản lý sử dụng.
15/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 788
- 10
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/8/2001, và trong quá trình giải quyết vụ án, bà NĐ_Ngô Thị Hạnh trình bày: Bà và ông Hàng Việt (chết ngày 23/11/1995) là vợ chồng chung sống từ năm 1950, có hai con chung là LQ_Trần Thanh Hoành, LQ_Hàng Lưu Sáng và một con nuôi là LQ_Hàng Huệ Lan; hai con Thanh Hoàng và Lưu Kim hiện đang sống tại Hoa Kỳ. Năm 1950 bà và ông Hàng Việt thuê căn nhà số 112 Nhân Vị, sau đổi thành Trần Hùng Quân (nay là số 240 NCT, phường X, quận M, thành phố HCM) của ông Trương Văn Bền để ở. Sau giải phóng vì căn nhà trên thuộc diện nhà do nhà nước quản lý nên thay vì ký hợp đồng với chủ nhà, vợ chồng bà tiếp tục ký hợp đồng thuê nhà với đội quản lý nhà thuộc ban xây dựng nhà đất quận M (hợp đồng thuê nhà số 325 ngày 05/11/1982 do chồng bà tên là Hàng Việt đứng tên thuê). Đến năm 1985, vợ chồng bà tiến hành thủ tục mua đứt căn nhà trên nhân đợt Nhà nước hoá giá nhà.
115/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1259
- 28
Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng
Bà Trần Thị Hiên kết hôn với ông Nguyễn Văn Hứa vào ngày 20/06/1969, đăng ký tại ủy ban nhân dân xã Hưng Tây. Quá trình chung sống đã có 03 con chung là Nguyễn Văn Minh, sinh ngày: 19/05/1970; Nguyễn Thị Nguyệt, sinh ngày: 07/05/1972; Nguyễn Văn Chinh, sinh ngày: 18/08/1976. Năm 1982 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, thiếu sự tôn trọng nhau, cũng năm 1982 ông Hứa phải đi thi hành án phạt tù về tội trộm cắp tài sản. Năm 1987, ông Hứa chung sống với bà Phan Thị Lục tại xóm Yên Vinh. Còn bà Hiên cũng chung sống với ông Nguyễn Văn Thái tại xóm Yên Hòa.
115/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 454
- 11
Bà Trần Thị Hiên kết hôn với ông Nguyễn Văn Hứa vào ngày 20/06/1969, đăng ký tại ủy ban nhân dân xã Hưng Tây. Quá trình chung sống đã có 03 con chung là Nguyễn Văn Minh, sinh ngày: 19/05/1970; Nguyễn Thị Nguyệt, sinh ngày: 07/05/1972; Nguyễn Văn Chinh, sinh ngày: 18/08/1976. Năm 1982 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, thiếu sự tôn trọng nhau, cũng năm 1982 ông Hứa phải đi thi hành án phạt tù về tội trộm cắp tài sản. Năm 1987, ông Hứa chung sống với bà Phan Thị Lục tại xóm Yên Vinh. Còn bà Hiên cũng chung sống với ông Nguyễn Văn Thái tại xóm Yên Hòa.