cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

113/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1390
  • 50

Tranh chấp thừa kế

10-09-2013

Cụ Nguyên Mô và cụ Bùi Thị Chảnh có 06 người con gồm ông Nguyễn Hai (chết năm 2007, có vợ là bà BĐ_Phan Thị Cúc và 05 người con), ông LQ_Nguyễn Bảo, bà LQ_Nguyễn Thị Tú, ông NĐ_Nguyễn Văn Xinh, bà LQ_Nguyễn Thị Bình, bà LQ_Nguyễn Thị Linh. Hai cụ có căn nhà từ đường trên khoảng 3000m2 đất thửa số 722 tại tổ 7, thôn Xuân Lạc 2, xã VN, thành phố NT, tỉnh KH. Ngoài ra, hai cụ còn có thửa đất màu (liền kề thửa 722), diện tích khoảng 1500m2. Năm 1973, cụ Chảnh chết, không để lại di chúc. Năm 1993, cụ Mô chết cũng không để lại di chúc. Sau khi cụ Mô chết, vợ chồng ông Hai, bà BĐ_Cúc tiếp tục quản lý tài sản nhà và đất. Năm 2002, ông Hai bị ốm không có tiền chữa bệnh nên các anh em thống nhất thỏa thuận chia thửa đất màu; theo đó, ông và ông LQ_Bảo, mỗi người được chia 120m2 đất, bà LQ_Tú, bà LQ_Bình và bà LQ_Linh mỗi người được chia 80m2 đất, phần đất còn lại ông Hai bán lấy tiển chữa bệnh. Năm 2004, các anh em ông góp tiền sửa chữa ngôi nhà từ đường. Năm 2007, ông Hai chết. Sau đó, bà BĐ_Cúc chuyển nhượng toàn bộ đất cho con là anh LQ_Nguyễn Nam và phân chia đất cho các con, không có sự đồng ý của các anh em ông.


140/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 697
  • 12

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

19-03-2012

Theo đơn khởi kiện ngày 12/05/2009, các bản tự khai, các biên bản hòa giải và tại phiên tòa các nguyên đơn bà NĐ_Trần Thị Bích, bà NĐ_Lê Thị Bích, bà NĐ_Lê Thị Hiền, bà NĐ_Lê Thị Liên, bà NĐ_Lê Thị Trinh, bà NĐ_Lê Thị Cẩm Linh trình bày: Cha mẹ của các nguyên đơn là ông Lê Văn Thuận và bà Võ Thị Cai, ông Thuận mất năm 1985, bà Cai mất năm 2002. Ông Thuận và bà Cai có 6 người con gồm bà NĐ_Trần Thị Bích, NĐ_Lê Thị Bích, Lê Văn Sum, NĐ_Lê Thị Hiền, NĐ_Lê Thị Liên, NĐ_Lê Thị Trinh, NĐ_Lê Thị Cẩm Linh. Ông Lê Văn Sum là chồng của bà BĐ_Võ Thị Hạnh.Từ khi ông Thuận mất năm 1985 có để lại một ngôi nhà tường ba gian và diện tích đất 1.720m2 do bà Cai quản lí, đến năm 2002 bà Cai mất thì số tài sản trên do bà BĐ_Võ Thị Hạnh và anh BĐ_Lê Quang Thanh quản lí. Vào ngày 12/12/2008 các bà phát hiện bà BĐ_Hạnh và anh BĐ_Thanh bán phần đất trên nền đất nêu trên với giá 455.000.000đ (bốn trăm năm mươi lăm triệu đồng), các bà ngăn cản thì bà BĐ_Hạnh và anh BĐ_Thanh thỏa thuận là chia phần tài sản cho các bà là 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng). Bà BĐ_Hạnh và Anh BĐ_Thanh đã viết giấy nhận nợ ngày 17/12/2008, hẹn trả tiền cho các bà vào ngày 17/3/2009 nhưng đến nay không trả nên các bà yêu cầu tòa án giải quyết buộc bà BĐ_Võ Thị Hạnh và anh BĐ_Lê Quang Thanh phải trả cho các bà số tiền 300.000.000đ.


254/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 428
  • 5

Tranh chấp thừa kế

16-06-2014

Bà BĐ_Đan không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà NĐ_Sa, bà NĐ_Hằng, bà NĐ_Son, vì cho rằng bà là người trực tiếp quản lý, sử dụng đất từ năm 1975 đến nay, quá trình quản lý bà đã thực hiện đầy đủ các thủ tục đăng ký đất và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Đối với căn nhà của cụ Xấu và cụ Khoan hiện ông BĐ_Sinh đang quản lý sử dụng, bà BĐ_Đan thống nhất giao cho ông BĐ_Sinh được quyền nhận hưởng và quản lý sử dụng


28/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 303
  • 5

Tranh chấp thừa kế

13-06-2014

Đối với diện tích các thửa 1914, 1915 (do bà LQ_Liên đứng tên) và thửa 1887 (đứng tên ông Thân) thuộc ấp Bình Lương, xã ĐK, huyện CT tuy chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng các đương sự đều xác nhận là của cụ Sáu, phần đất này đã đứng tên bà LQ_Liên, ông Thân trong sổ đăng ký đất nên theo Khoản 1, Khoản 2 Điều 50 và Điều 136 Luật đất đai thì thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Toà án. Đối với phần đất 1.830m2 (đo thực tế là 2.732,4m2) của các thửa đất số 21, 22, 28, 29 thuộc ấp Long Mỹ, xã LTB, huyện HT cần phải thu thập chứng cứ để xác định đương sự có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 50 Luật đất đai không để xác định có thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án không. Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ những tình tiết nêu trên để giải quyết trong cùng vụ án là không đúng.