17/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 633
- 12
Cố Tý chết để lại 15.000m2 đất vườn và 45.000m2 đất ruộng và một số đồ dùng. Sau khi cố Tý chết, mẹ ông sử dụng toàn bộ đất và nhà. Năm 1963, 1964 ông và ông Trác đi lính, năm 1975 ông về lập gia đình ở chung cùng cụ Đê khoảng 1 năm thì lên VL mua nhà ở tại đây. Năm 1975, ông Trác đi nước ngoài đến nay. Ông BĐ_Lương lập gia đình năm 1960, ở chung cùng cụ Đê, sau đó trốn quân dịch phải đi địa phương khác, vợ con ông BĐ_Lương vẫn ở cùng cụ Đê, khi giải phóng ông BĐ_Lương cũng mới về quê. Sau năm 1975, cụ Đê vẫn quản lý toàn bộ đất. Năm 1976, cụ Đê tạm chia cho ông 15.000m2 đất ruộng, nhưng ông BĐ_Lương chỉ đo cho ông 12.000m2 và 4.000m2 đất vườn. Cụ Đê sử dụng 10.000m2 đất vườn để thờ cúng và 5.000m2 đất ruộng, còn lại ông BĐ_Lương sử dụng 28.000m2 đất ruộng. Năm 1979, đưa toàn bộ đất ruộng mở Tập đoàn, đến năm 1981 tan rã Tập đoàn, ông BĐ_Lương lấy luôn cả 5.000m2 đất ruộng của cụ Đê, cụ Đê chỉ sống nhờ đất vườn, nhưng vẫn đóng thuế toàn bộ. Năm 1991, có đoàn đo đạc của Tỉnh đến, ông BĐ_Lương kê khai đứng tên toàn bộ đất ruộng vườn. Năm 1992, cụ Đê chết, ông BĐ_Lương quản lý toàn bộ đất đến nay và ông BĐ_Lương tự ý chia cho các con ông BĐ_Lương một phần.
17/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 379
- 6
Cố Tý chết để lại 15.000m2 đất vườn và 45.000m2 đất ruộng và một số đồ dùng. Sau khi cố Tý chết, mẹ ông sử dụng toàn bộ đất và nhà. Năm 1963, 1964 ông và ông Trác đi lính, năm 1975 ông về lập gia đình ở chung cùng cụ Đê khoảng 1 năm thì lên VL mua nhà ở tại đây. Năm 1975, ông Trác đi nước ngoài đến nay. Ông BĐ_Lương lập gia đình năm 1960, ở chung cùng cụ Đê, sau đó trốn quân dịch phải đi địa phương khác, vợ con ông BĐ_Lương vẫn ở cùng cụ Đê, khi giải phóng ông BĐ_Lương cũng mới về quê. Sau năm 1975, cụ Đê vẫn quản lý toàn bộ đất. Năm 1976, cụ Đê tạm chia cho ông 15.000m2 đất ruộng, nhưng ông BĐ_Lương chỉ đo cho ông 12.000m2 và 4.000m2 đất vườn. Cụ Đê sử dụng 10.000m2 đất vườn để thờ cúng và 5.000m2 đất ruộng, còn lại ông BĐ_Lương sử dụng 28.000m2 đất ruộng. Năm 1979, đưa toàn bộ đất ruộng mở Tập đoàn, đến năm 1981 tan rã Tập đoàn, ông BĐ_Lương lấy luôn cả 5.000m2 đất ruộng của cụ Đê, cụ Đê chỉ sống nhờ đất vườn, nhưng vẫn đóng thuế toàn bộ. Năm 1991, có đoàn đo đạc của Tỉnh đến, ông BĐ_Lương kê khai đứng tên toàn bộ đất ruộng vườn. Năm 1992, cụ Đê chết, ông BĐ_Lương quản lý toàn bộ đất đến nay và ông BĐ_Lương tự ý chia cho các con ông BĐ_Lương một phần.
646/2009/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 338
- 5
Tại đơn khởi kiện ngày 3/1/2008 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn ông NĐ_Ngô Quang Lợi trình bày: Cụ Ngô Quang Chiêu (là ông nội của ông) có để lại cho cha ông là Ngô Quang Kính 28.420m2 đất tại ấp Trường Tây, xã TT, huyện PĐ, thành phố CT. Sau đó, cụ Kính để lại cho ông. Vào năm 1975 ông BĐ_Ngô Văn Thành (là anh em chú bác ruột) có hỏi mượn ông một phần đất có diện tích ngang 7m dài 30m (210m2 là một phần của thửa 510, tờ bản đồ số 3) để cất nhà ở vì phần đất của ông BĐ_Thành không có mặt tiền. Hiện tại ông BĐ_Thành đã mua được phần đất thổ cư kế cận nên ông yêu cầu ông BĐ_Thành phải trả cho ông phần đất trên tại thửa 510, tờ bản đồ số 03, nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000043 của ông do ủy ban nhân dân huyện Ô Môn (cũ) cấp ngày 17/4/1995.
160/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 350
- 6
Vợ chồng cụ Đặng Thưởng, cụ Phạm Thị Hà (tức Lãnh) là cha mẹ của ông NĐ_Đặng Vinh và ông BĐ_Đặng Thế Lân khi còn sống tạo lập được khối tài sản gồm: - Ngôi nhà trên diện tích 83,7m2 đất thuộc thửa số 5 tờ bản đồ 22, cụ Hà mua từ năm 1959. Năm 1967 cụ làm lại nhà và ở cùng Lãnh đến khi chết (năm 1999). - Ngôi nhà trên diện tích 1.831,8m2 đất thuộc thửa số 100, tờ bản đồ 16, do ông bà nội của ông NĐ_Vinh, ông BĐ_Lân để lại cho cha mẹ các ông quản lý từ năm 1939. Năm 1975 nhà bị hỏng, ông BĐ_Lân xây dựng lại. - Diện tích 1.366,3m2 đất thuộc thửa số 148 tờ bản đồ 12 do ông nội các ông để lại cho mẹ các ông canh tác, hiện ông BĐ_Lân trồng cây keo. Cụ Thưởng chết năm 1940, cụ Hà chết năm 1999 đều không để lại di chúc, toàn bộ khối di sản nêu trên đều do ông BĐ_Lân quản lý, sử dụng nên yêu cầu được chia di sản thừa kế, nhưng chỉ yêu cầu chia thừa kế đất, không yêu cầu chia thừa kế nhà.
160/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 305
- 4
Vợ chồng cụ Đặng Thưởng, cụ Phạm Thị Hà (tức Lãnh) là cha mẹ của ông NĐ_Đặng Vinh và ông BĐ_Đặng Thế Lân khi còn sống tạo lập được khối tài sản gồm: - Ngôi nhà trên diện tích 83,7m2 đất thuộc thửa số 5 tờ bản đồ 22, cụ Hà mua từ năm 1959. Năm 1967 cụ làm lại nhà và ở cùng Lãnh đến khi chết (năm 1999). - Ngôi nhà trên diện tích 1.831,8m2 đất thuộc thửa số 100, tờ bản đồ 16, do ông bà nội của ông NĐ_Vinh, ông BĐ_Lân để lại cho cha mẹ các ông quản lý từ năm 1939. Năm 1975 nhà bị hỏng, ông BĐ_Lân xây dựng lại. - Diện tích 1.366,3m2 đất thuộc thửa số 148 tờ bản đồ 12 do ông nội các ông để lại cho mẹ các ông canh tác, hiện ông BĐ_Lân trồng cây keo. Cụ Thưởng chết năm 1940, cụ Hà chết năm 1999 đều không để lại di chúc, toàn bộ khối di sản nêu trên đều do ông BĐ_Lân quản lý, sử dụng nên yêu cầu được chia di sản thừa kế, nhưng chỉ yêu cầu chia thừa kế đất, không yêu cầu chia thừa kế nhà.