cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

21/2014/DS-GĐT: Ly hôn Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 817
  • 34

Ly hôn

20-01-2014

Anh NĐ_Phạm Ngọc Tuấn và chị BĐ_Phùng Thị Minh kết hôn năm 1992 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào tháng 10/1992 tại UBND xã HX, huyện Tam Thanh, tỉnh Vĩnh Phú. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Ngày 04/02/2009, anh NĐ_Tuấn có đơn xin ly hôn với chị BĐ_Minh. Chị BĐ_Minh xin được đoàn tụ nhưng nếu anh NĐ_Tuấn kiên quyết ly hôn thì chị chấp nhận. Về con chung: Anh chị có 02 con chung, là cháu Phạm Văn Toàn, sinh ngày 08/9/1993 và cháu Phạm Ngọc Thắng, sinh ngày 28/9/2001. Anh NĐ_Tuấn có nguyện vọng được nuôi cháu Toàn, chị BĐ_Minh có nguyện vọng được nuôi hai con và yêu cầu anh NĐ_Tuấn cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Nguyện vọng của cháu Toàn là được ở với mẹ.


521/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 966
  • 15

Tranh chấp quyền sử dụng đất

17-12-2014

Bố mẹ bà có 1501m2 đất tại khu liên minh, phường MP, thành phố VT, tỉnh PT, nên đã cho hai chị em bà diện tích đất trên. Trong đó bà được hưởng là 781m2 đã được UBND thành phố VT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 705355 ngày 07/04/2005 thửa đất số 232-1, tờ bản đồ số 10, mảnh đất này giáp ranh với hộ bà Đào Thị Quy có chiều dài là 25m, một chiều giáp đường giao thông xóm 25m, chiều rộng phía trên giáp đường 23,6m (thiếu l,4m). Diện tích thực tế còn lại của bà là 683,04m2, bị thiếu so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 97,96m2. Bà cho rằng phần diện tích còn thiếu như trên do hộ bà BĐ_Đan lấn chiếm khoảng 70m2, còn khoảng 30m2 do Nhà nước lấy làm đường giao thông. Do đó, bà khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Đan phải trả phần diện tích đất đã lấn chiếm như trên. Phần cây lâm lộc trên diện tích đất (sấp sỉ 70m2) bà chấp nhận cho hộ bà BĐ_Đan thu hoạch.


221/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 642
  • 19

Tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà

09-06-2014

Tại đơn khởi kiện ngày 12/3/2012 và trong quá trình tố tụng, ông NĐ_Bùi Đỗ Hòa trình bày: Ngày 09/09/2007, ông đặt cọc cho bà BĐ_Nguyễn Thị Minh Nga để mua căn hộ tái định cư ở cao ốc An Cư, Khu dân cư An Phú - An Khánh, quận 2 diện tích là 140m2, giá thỏa thuận là 10.200.000đ/m2, tổng cộng là 1.428.000.000đ. Ông đã giao cho bà BĐ_Nga 882.000.000đ (ngày 09/9/2007, giao 100.000.000đ, ngày 11/09/2007 giao 782.000.000đ); số tiền còn lại 546.000.000đ ông sẽ tự đóng theo tiến độ khi được chủ phiếu tái định cư là ông Lê Thanh Liêm ủy quyền và nhận nhà. Nguồn gốc căn hộ mà bà BĐ_Nga nhận cọc, bán cho ông là của ông Lê Thanh Liêm. Ông Liêm là chủ sở hữu căn nhà bị giải tỏa tại số 36/6F tổ 45, khu phố 3, phường An Khánh, quận 2 bị giải tỏa và được bố trí tái định cư căn hộ số 04, tầng 14, chung cư An Cư, khu phố 5, phường An Phú, quận 2. Thời điểm đó chưa bàn giao căn hộ, ông Liêm bán phiếu tái định cư cho bà Phạm Thị Hà Hải, bà Nguyễn Ngọc Huệ. Bà Huệ chuyển nhượng phiếu tái định cư cho bà BĐ_Nga, bà BĐ_Nga nhận cọc chuyển nhượng lại cho ông. Kể từ ngày giao đủ tiền cho bà BĐ_Nga, ông làm các thủ tục liên quan đến việc đền bù giải tỏa để được nhận căn hộ chung cư theo thỏa thuận mua bán giữa ông và bà BĐ_Nga. Tuy nhiên sau 02 năm, ông cũng không nhận được căn hộ chung cư mà bà BĐ_Nga nhận đặt cọc chuyển nhượng cho ông theo thỏa thuận.