61/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 838
- 10
Trước khi ông Duyên chết có để lại 02 tờ di chúc: - Di chúc ngày 02-4-1960 có nội dung: Cho bà Hà Thị Hường (vợ kế của ông Duyên) 01 căn nhà và cho ông Vương Phước Trung 02 căn nhà trong số 03 căn nhà tại số 02 PĐ, NT hiện nay. - Di chúc ngày 10-4-1960 có nội dung: Cho ông Vương Phước Trung toàn bộ nhà và đất tại 02A Lê Hổng Phong, PH, NT. Sau khi ông Duyên chết cha tôi là ông Vương Phước Trung quản lý toàn bộ nhà đất tại số 02A LHP, NT. Còn 03 căn nhà 02A, 02B, 02C tại đường PĐ, NT, ông Trung đứng tên cho thuê. Năm 1983 ông Trung đã làm giấy ủy quyền cho ông Thuận đi kiện đòi lại căn nhà của chủ thuê. Lúc này ông Thuận đã biết ông Duyên lập di chúc cho cha tôi là ông Trung 02 căn nhà và cho bà Hà Thị Hường 01 căn nên cha tôi (ông Trung) mới phải làm giấy ủy quyền cho ông Thuận đi đòi lại 03 căn nhà tại số 02 đường PĐ, NT. Vì tình cảm anh em nên sau khi ông Thuận đòi được 03 căn nhà tại số 02 PĐ, NT, cha tôi giao cho ông Thuận quản lý hết cả 03 căn nhà này.
05/2011/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1597
- 41
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Tổng cộng 07 lần vay với số tiền là 59.000.000 đồng, việc vay tiền có làm biên nhận do bà BĐ_Loan ký tên, hai bên không thỏa thuận thời gian trả mà chỉ thỏa thuận đóng lãi hàng tháng, khi nào cần lấy tiền vốn thì bà NĐ_Minh báo trước để ông BĐ_Hưng và bà BĐ_Loan chuẩn bị tiền, nhưng khi bà NĐ_Minh yêu cầu trả nợ thì bà BĐ_Loan và ông BĐ_Hưng không thực hiện việc trả nợ như đã thỏa thuận. Từ khi vay đến nay vợ chồng ông BĐ_Hưng và. bà BĐ_Loan có đóng lãi được 02 tháng của số tiền 5.000.000 đồng vay ngày 20/09/2006 với lãi suất 6%/tháng bằng 600.000 đồng. Ngoài ra sau khi có bản án số 231/DSST ngày 14/07.2008 của Tòa án nhân dân thành phố ST có hiệu lực thì vợ chồng ông BĐ_Hưng và bà BĐ_Loan có trả cho bà NĐ_Minh số tiền 36.000.000đồng.
39/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 830
- 21
Cụ Vương Phước Duyên (chết ngày 21/4/1960) có 02 người vợ: vợ thứ nhất là cụ Nguyễn Thị Trọng (chết năm 1955), cụ Duyên và cụ Trọng có 2 người con chung là ông Vương Phước Trung (chết ngày 4/6/1998, có vợ là bà Võ Thi Chân, chết ngày 2/11/1996, ông Trung, bà Chân có 5 người con trong đó có anh NĐ_Vương Phước Tề (là nguyên đơn) và ông Vương Phước Thuận (chết ngày 16/12/1986, có vợ là bà Nguyễn Thị Kề chết ngày 26/7/1992, ông Thuận, bà Kề có 12 người con trong đó có anh BĐ_Vương Hùng Quân là bị đơn); vợ thứ hai là cụ Hà Thị Hường (chết năm 1995), cụ Duyên vói cụ Hường không có con chung.
39/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2185
- 108
Cụ Vương Phước Duyên (chết ngày 21/4/1960) có 02 người vợ: vợ thứ nhất là cụ Nguyễn Thị Trọng (chết năm 1955), cụ Duyên và cụ Trọng có 2 người con chung là ông Vương Phước Trung (chết ngày 4/6/1998, có vợ là bà Võ Thi Chân, chết ngày 2/11/1996, ông Trung, bà Chân có 5 người con trong đó có anh NĐ_Vương Phước Tề (là nguyên đơn) và ông Vương Phước Thuận (chết ngày 16/12/1986, có vợ là bà Nguyễn Thị Kề chết ngày 26/7/1992, ông Thuận, bà Kề có 12 người con trong đó có anh BĐ_Vương Hùng Quân là bị đơn); vợ thứ hai là cụ Hà Thị Hường (chết năm 1995), cụ Duyên vói cụ Hường không có con chung.
276/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1485
- 19
Trong quá trình giải quyết vụ án, chính bị đơn đã thừa nhận diện tích đất có nguồn gốc là của cụ Tranh được thừa hưởng từ gia tộc. Cụ Phạm Văn Hai là em ruột cụ Phạm Văn Bê cũng xác định toàn bộ diện tích đất tranh chấp là của cụ Bê, cụ Tranh. Do đó việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Mạnh, chia thừa kế một phần diện tích đất tranh chấp, xác định thửa 897 có nguồn gốc từ thửa 1347, 1349 của cụ Tranh đăng ký kê khai để chia thừa kế. Còn Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà BĐ_Phú và cho rằng thời điểm năm 1975 cụ Tranh đã già (65 tuổi) không thể đứng ra cất nhà, khai phá đất, từ đó bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không đúng. Vì vậy, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Tòa dân sự xét xử giám đốc thẩm, hủy cả bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại là cần thiết nên chấp nhận.