100/2013/GĐT-DS: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1907
- 109
Theo đơn khởi kiện tháng 7 năm 1993 nguyên đơn là ông Vũ Đình Hưng trình bày: Cha mẹ ông là cụ Vũ Đình Quảng và cụ Nguyễn Thị Thênh sinh được 6 người con là ông Vũ Đình Đường, bà Vũ Thị Cẩm, bà Vũ Thị Thảo, ông, bà Vũ Thị Tiến (tức Hiền) và bà Vũ Thị Hậu. Cụ Quảng và cụ Thênh tạo lập được căn nhà số 66 phố Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, diện tích 123m2. Năm 1979 cụ Quảng chết không để lại di chúc, căn nhà do cụ Thênh và 3 con là ông, bà Hậu, bà Tiến ở; ông Đường, bà Thảo và bà Cẩm đều xuất cảnh đi nước ngoài. Tại biên bản họp gia đình ngày 28/10/1982, cụ Thênh và ông, bà Tiến, bà Hậu thỏa thuận tạm thời phân chia nhà thành 3 phần cho ông, bà Hậu và bà Tiến sử dụng. Năm 1987, cụ Thênh chết. Sau đó năm 1989, bà Tiến đã lén lút bán phần nhà được tạm chia cho bà Nguyễn Thị Kim Oanh. Khi ông đã có đơn khởi kiện chia thừa kế ra Tòa án rồi nhưng ngày 31/10/1993 bà Hậu đã bán tiếp phần nhà bà Hậu được tạm chia cho bà Hà Thùy Linh.
60/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 863
- 18
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Nguồn gốc thửa đất diện tích 3 sào 8 thước tại tổ 9, khu vực 9, phường TQD, thành phố QN, tỉnh BĐ là của cha mẹ bà là vợ chồng cụ Nguyễn Sáng, cụ Nguyễn Thị Hồ (hai cụ được chế độ cũ cấp trích lục địa bộ). Bà được cha mẹ cho 300m2trong tổng số diện tích đất nêu trên. Năm 1957, bà dựng một căn nhà mái lợp tranh, tường trát đất, nền gạch thẻ, diện tích 10m2. Năm 1960, gia đình cụ Lê Văn An (là cha của ông BĐ_Lê Văn Mạnh) tản cư, đến xin ở nhờ; việc cho ở nhờ chỉ nói miệng. Năm 1975 căn nhà dột nát, bà đồng ý để cụ An sửa chữa lại. Sau đó cụ An sửa chữa nhiều lần và nới rộng diện tích nhà rồi giao lại cho ông BĐ_Mạnh quản lý, sử dụng. Khoảng năm 1995, bà đến gặp ông BĐ_Mạnh đòi lại nhà, nhưng vợ chồng ông BĐ_Mạnh không trả. Nay bà yêu cầu ông BĐ_Mạnh trả lại nhà, đất cho bà.
100/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1421
- 17
Sau khi cụ Thiềm chết, ông NĐ_Hòa, bà BĐ_Tý và bà BĐ_Hên đã tự phân chia căn nhà thành 3 phần để ở. Ngày 18/10/1992, bà BĐ_Tý bán phần nhà đang sử dụng cho bà LQ_Nguyễn Thị Kiều và ngày 31/10/1993 bà BĐ_Hên bán tiếp phần nhà bà đang ở cho bà LQ_Hà Thùy Loan. Năm 1993, ông NĐ_Hòa khởi kiện yêu cầu chia thừa kế nhà đất của cha mẹ nêu trên theo pháp luật. Việc giải quyết vụ án kéo dài từ năm 1993 đến 1996 và bị tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm năm 1997. Năm 2007, vụ án được thụ lý lại.
60/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1099
- 27
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Nguồn gốc thửa đất diện tích 3 sào 8 thước tại tổ 9, khu vực 9, phường TQD, thành phố QN, tỉnh BĐ là của cha mẹ bà là vợ chồng cụ Nguyễn Sinh, cụ Nguyễn Thị Hoa (hai cụ được chế độ cũ cấp trích lục địa bộ). Bà được cha mẹ cho 300m2 trong tổng số diện tích đất nêu trên. Năm 1957, bà dựng một căn nhà mái lợp tranh, tường trát đất, nền gạch thẻ, diện tích 10m2. Năm 1960, gia đình cụ Lê Văn Ên (là cha của ông BĐ_Lê Văn Mã) tản cư, đến xin ở nhờ; việc cho ở nhờ chỉ nói miệng. Năm 1975 căn nhà dột nát, bà đồng ý để cụ Ên sửa chữa lại. Sau đó cụ Ên sửa chữa nhiều lần và nới rộng diện tích nhà rồi giao lại cho ông BĐ_Mã quản lý, sử dụng. Khoảng năm 1995, bà đến gặp ông BĐ_Mã đòi lại nhà, nhưng vợ chồng ông BĐ_Mã không trả. Nay bà yêu cầu ông BĐ_Mã trả lại nhà, đất cho bà.
124/2013/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 500
- 11