cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

452/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 322
  • 6

Tranh chấp quyền sở hữu nhà

21-11-2014

Ông, bà khởi kiện yêu cầu chị BĐ_Đàm Thị Vy trả lại 11.742,4m2 đất và nhà ở tại thửa đất số 41 và 51 tờ bản đồ số 01 xã TĐ, thị xã ĐH, tỉnh QB. Nguồn gốc của phần đất này trước đây là đất rừng tái sinh thuộc quyền quản lý của UBND xã Bắc Lý; năm 1998 khi thành lập xã TĐ thì thuộc quyền quản lý của UBND xã TĐ; từ năm 1994 ông, bà cùng một số gia đình khác đã đăng ký xin UBND phường Bắc Lý để canh tác trên diện tích đất này, năm 2004 UBND thị xã ĐH (nay là thành phố ĐH) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với 02 thửa đất nêu trên cho ông, bà. Năm 1998, vợ chồng ông, bà khởi công xây dựng ngôi nhà đang tranh chấp hiện nay, quá trình làm nhà được làm nhiều lần, nhiều công đoạn và nhiều đoàn thợ khác nhau.


52/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1293
  • 35

Tranh chấp thừa kế

21-11-2014

Cụ Nguyễn Văn Tròn (chết năm 1990) và cụ Hồng Thị Diệu (chết năm 1976) có 8 người con là ông Nguyễn Văn Bê (chết năm 1965, là cha của anh Tâm), bà Nguyễn Thị A và bà Nguyễn Thị Chơi (có chồng là ông Nguyễn Văn Dũng là bị đơn), bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Văn Quây, bà Nguyễn Thị Nho, bà Nguyễn Thị Quăn (chết năm 1982), ông Nguyễn Văn Em. Hai cụ khai phá được khoảng 800m2 đất tại 20/1 Lương Đình Của, Ấp 4, phường An Khánh, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh và đã cất nhà lá trên đất để ở. Năm 1962, ông Bê cất nhà gỗ thay nhà lá để cha mẹ ở. Năm 1985, ông Quây xin cụ Tròn cho vợ chồng bà Chơi cất nhà mái lá 40m2 để ở, nhà số 20/2. Năm 1988, bà A ly hôn về cất nhà vách lá ở tạm diện tích 40m2 đất, chưa có số nhà. Năm 1992, ông Em chuyển nhượng khoảng 150m2 đất cho người khác được 4 cây vàng, đã chia tiền cho các anh chị em. Đất còn khoảng 650m2.


452/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 354
  • 13

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

21-11-2014

Tại đơn khởi kiện đề ngày 28/6/2010 và trong quá trình tố tụng, đồng nguyên đơn là ông NĐ_Nguyễn Văn Thắng, bà NĐ_Đinh Thị Lan trình bày: Ông, bà khởi kiện yêu cầu chị BĐ_Đàm Thị Viên trả lại 11.742,4m2 đất và nhà ở tại thửa đất số 41 và 51 tờ bản đồ số 01 xã TĐ, thị xã ĐH, tỉnh QB. Nguồn gốc của phần đất này trước đây là đất rừng tái sinh thuộc quyền quản lý của UBND xã Bắc Lý; năm 1998 khi thành lập xã TĐ thì thuộc quyền quản lý của UBND xã TĐ; từ năm 1994 ông, bà cùng một số gia đình khác đã đăng ký xin UBND phường Bắc Lý để canh tác trên diện tích đất này, năm 2004 UBND thị xã ĐH (nay là thành phố ĐH) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với 02 thửa đất nêu trên cho ông, bà. Năm 1998, vợ chồng ông, bà khởi công xây dựng ngôi nhà đang tranh chấp hiện nay, quá trình làm nhà được làm nhiều lần, nhiều công đoạn và nhiều đoàn thợ khác nhau. Chị BĐ_Viên là vợ của anh Nguyễn Văn Nghị (con của ông, bà) nhưng không có đăng ký kết hôn, hiện chị BĐ_Viên và anh Nghị đã có 01 cháu gái là Nguyễn Thị Thảo (sinh năm 1997). Năm 2001 anh Nghị chết, sau đó vợ chồng ông tiếp tục hoàn thiện ngôi nhà trên; đến năm 2003 ông, bà bán nhà cũ và ra ở với chị BĐ_Viên và cháu Thảo trong ngôi nhà nêu trên. Năm 2006, chị BĐ_Viên đi Miền Nam làm ăn, năm 2008 mới quay về. Do chị BĐ_Viên đòi đuổi ông, bà ra khỏi ngôi nhà nêu trên, nên ông, bà khởi kiện đề nghị công nhận quyền sở hữu nhà và đất nêu trên cho ông, bà.