cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

376/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 485
  • 4

Tranh chấp quyền sử dụng đất

18-09-2014

Nguồn gốc đất tranh chấp là ông, bà của bà để lại cho bà với diện tích 2.080m2 tọa lạc tại khóm 3, thị trấn CN, huyện CN, tỉnh CM. Phần đất này bà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2003, khi ông bà để lại đất cho bà thì có đường mương chiều ngang mặt tiền 1,5m, chiều dài đến hậu 68m nằm trong quyền sử dụng đất do bà đứng tên với diện tích 2.080m2 (quyền sử dụng đất hiện nay không vay Ngân hàng). Bà không xác định phần đất chiều ngang mặt tiền và chiều ngang mặt hậu của bà là bao nhiêu, nhưng xác định phần ranh đất giữa bà và ông BĐ_Phấn mỗi người là ½ mương ranh. Vào khoảng năm 2001-2002 phía ông BĐ_Phấn có sên vuông để lắp đường mương lúc đó bà không có nhà. Khi bà về thì bà có hỏi ông BĐ_Phấn tại sao sên vuông mà đổ lên đất của bà, thì ông BĐ_Phấn trả lời là do đất nhiều quá không có chỗ đổ nên mới tràn qua mương ranh đất ông BĐ_Phấn và bà.


76/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2398
  • 48

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

05-03-2014

Nguyên đơn bà NĐ_Đoàn Việt Thư trình bày: Phần đất tranh chấp có diện tích 25.990m2 nằm trong khối di sản 64.361m2 đất tọa lạc tại ấp Lung Tràm, xã KH, huyện TVT, tỉnh CM của mẹ bà là cụ Nguyễn Thị Thình đã được Ủy ban nhân dân huyện TVT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1995. Cha bà là cụ Đoàn Văn Hơn - hi sinh năm 1960, cha mẹ bà có có 5 người con nhưng một người con gái đã hi sinh (không chồng con) còn lại 4 người con là: Bà, ông BĐ_Đoàn Văn Khôi, bà LQ_Đoàn Chi Linh, bà LQ_Đoàn Kim Nga. Năm 2009, cụ Thình chết không để lại di chúc. Toàn bộ phần đất của cụ Thình là 64.361m2 hiện bà đang quản lý sử dụng khoảng 9000m2 đất, còn lại là do anh BĐ_Đoàn Phong Bảo và ông BĐ_Đoàn Văn Khôi quản lý sử dụng. Trên đất có căn nhà tình nghĩa của cụ Thình do anh BĐ_Đoàn Phong Bảo quản lý và 01 căn nhà cũ của cụ Thình do bà sử dụng. Trước đây ông BĐ_Đoàn Văn Khôi và anh BĐ_Đoàn Phong Bảo (cháu ngoại của cụ Thình và là con của bà NĐ_Thư) ở cùng với cụ Thình. Năm 1996, vợ chồng ông BĐ_Khôi ra ở riêng thì bà và các con bà được cụ Thình bảo lãnh cho ở chung. Lúc này cụ Thình ở một mình không ai chăm sóc, nhà cửa hư hỏng, đất chỉ canh tác được khoảng 20 công, nợ thuế nông nghiệp nhiều nên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị Nhà nước giữ. Bà có đưa tiền vàng cho cụ Thình cất giữ để sửa nhà, cải tạo đất và đóng thuế.


276/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1485
  • 19

Tranh chấp thừa kế

21-07-2014

Trong quá trình giải quyết vụ án, chính bị đơn đã thừa nhận diện tích đất có nguồn gốc là của cụ Tranh được thừa hưởng từ gia tộc. Cụ Phạm Văn Hai là em ruột cụ Phạm Văn Bê cũng xác định toàn bộ diện tích đất tranh chấp là của cụ Bê, cụ Tranh. Do đó việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Mạnh, chia thừa kế một phần diện tích đất tranh chấp, xác định thửa 897 có nguồn gốc từ thửa 1347, 1349 của cụ Tranh đăng ký kê khai để chia thừa kế. Còn Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà BĐ_Phú và cho rằng thời điểm năm 1975 cụ Tranh đã già (65 tuổi) không thể đứng ra cất nhà, khai phá đất, từ đó bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không đúng. Vì vậy, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Tòa dân sự xét xử giám đốc thẩm, hủy cả bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại là cần thiết nên chấp nhận.