64/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 366
- 8
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Ngày 30/11/2001, bà NĐ_Hân và bà NĐ_Vy chung tiền mua 2,5 công đất (2.500m2) đất trong 4.900m2 đất tại thửa số 62, tờ bản đồ 37 tại An Phước, phường 11, thành phố VT của vợ chồng ông BĐ_Trần Văn Thông và bà BĐ_Trần Thị Phụng với giá 25 cây vàng (10 cây vàng/công). Do ông BĐ_Thông chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông BĐ_Thông đồng ý bớt cho bên mua 01 cây vàng để sau này làm thủ tục sang tên. Bên mua đã đã cọc 15 cây vàng, còn thiếu 9 cây. Ngày 30/7/2004, ông BĐ_Thông yêu cầu bên mua thanh toán nốt tiền nên bà NĐ_Hân trả tiếp 09 cây vàng. Các bà yêu cầu ông BĐ_Thông đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông BĐ_Thông cho biết ông LQ_Nguyễn Hữu Bảo cầm để tách thửa (ông LQ_Bảo là người nhận chuyển nhượng 2400m2).
22/2013/KDTM-PT: Tranh chấp hợp đồng tín dụng Phúc thẩm Kinh doanh thương mại
- 684
- 24
Ngân hàng và ông BĐ_Lê Minh Linh có ký hơp đồng tín dụng số 1467/ĐS/VAB- AN/HĐNH ngày 22.6.2010. Theo đó ngân hàng cho ông BĐ_Linh vay số tiền 420.000.000 đồng, mục đích vay mua đất để ở, lãi suất 1,38%/tháng, lãi suất quá hạn 150% lãi suất trong hạn, thời hạn vay 12 tháng. Để đảm bảo cho hợp đồng tín dụng trên, ông BĐ_Linh đã thế chấp cho ngân hàng quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T00901 ngày 14.11.2005 do ông Đoàn Văn Nguyên đứng tên. Hai bên có ký hợp đồng thế chấp tài sản số 0613/10/VAB-AN/TCBĐS ngày 22.6.2010. Phía bị đơn đã vi phạm hợp đồng không thanh toán tiền gốc và lãi theo thỏa thuận nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số nợ gốc là 420.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 14.952.000 đồng, lãi phạt chậm trả là 5.136.113 đồng, lãi quá hạn là 134.568.000 đồng và tiền lãi phát sinh cho đến khi thanh toán xong nợ, nếu không thì yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
04/2014/DSST: Tranh chấp quyền sử dụng đất Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 432
- 9
Diện tích 106m2 tọa lạc tại thửa 279, tờ bản đồ số 2 (sơ đồ nền), phường TML, Quận X thuộc một phần diện tích đất do ông NĐ_Dương Văn Giàu và bà NĐ_Nguyễn Thị Mai mua lại của ông Trần Văn Thuận và bà Võ Thị Hảo vào năm 1957. Trong quá trình sử dụng ông bà có cho con trai và con dâu là BĐ_Dương Anh Duy và BĐ_Bùi Thị Ngọc Oanh ở nhờ trên đất. Việc cho ở nhờ này chỉ nói miệng. Năm 2003, ông bà xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phát hiện bà BĐ_Oanh và ông BĐ_Duy đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên phần đất của ông bà với diện tích là 306,2m2. Ông bà đồng ý cho 200m2 và yêu cầu ông BĐ_Duy, bà BĐ_Oanh trả lại phần diện tích 106,2m2 còn lại theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Nhưng ông BĐ_Duy và bà BĐ_Oanh không đồng ý. Sau khi thỏa thuận trong gia đình không thành, ông bà khởi kiện.
64/2014/KDTM-GĐT: Tranh chấp hợp đồng tín dụng Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại
- 746
- 24
Mặc dù quá trình giải quyết vụ án, bà BĐ_Chung, anh BĐ_Mạnh đã thừa nhận số nợ gốc, nợ lãi như đại diện Ngân hàng trình bày. Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng buộc bà BĐ_Chung, anh BĐ_Mạnh có trách nhiệm thanh toán số nợ nêu trên là có căn cứ. Tuy nhiên, việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: “Kể từ ngày bản án có hiệu lực và NĐ_Ngân hàng phát triển nhà Cẩm Vân (do NĐ_Ngân hàng phát triển nhà Cẩm Vân - Chi nhánh tỉnh VL đại diện) thì bà BĐ_Nguyễn Thị Chung và anh BĐ_Nguyễn Công Mạnh còn phải chịu lãi suất theo quy định tại Khoản 2 Điều 305 của Bộ Luật dân sự cho đến khi thi hành án xong” là không đúng. Trường hợp này cần phải tuyên buộc bà BĐ_Chung, anh BĐ_Mạnh tiếp tục phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng trên số nợ gốc kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả hết số nợ gốc.
23/2014/GĐT-HC: Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng Giám đốc thẩm Hành chính
- 651
- 20
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Ngày 16/10/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 937/QĐ-TTg về việc thu hồi 269.167m2 đất thuộc xã Bình An, huyện Thuận An, tỉnh BD và giao cho Công ty Công viên Lịch sử Văn hóa dân tộc thành phố HồChí Minh sử dụng toàn bộ diện tích đất này để xây dựng Công viên Lịch sử Văn hóa dân tộc theo dự án đã được duyệt. Ngày 18/5/2000, ủy ban nhân dân tỉnh BD ban hành Thông báo số 1277/UB.SX gửi Công ty Công viên Lịch sử Văn hóa dân tộc và ủy ban nhân dân huyện DA về việc áp dụng giá đền bù khu vực xây dựng Công viên Lịch sử- Văn hóa dân tộc, có nội dung: “Thong nhất áp dụng giả đền hù, di dời trong khu vực 27ha quy hoạch xây dựng Công viên Lịch sử Văn hóa dân tộc thuộc xã Bình An, huyện DA theo giả đền bù của thành pho Hồ Chỉ Minh như tỉnh thần Thông bảo 216/TB. UB ngày 08/11/1996 trước đây của tỉnh”.