cơ sở dữ liệu pháp lý

650/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 2394
  • 11

03-06-2015
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn là NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Mỹ Linh có người đại diện theo ủy quyền là ông Trần Văn Thăng trình bày: Ngân hàng và ông BĐ_Trần Quang Mến, bà BĐ_Trần Thị My có ký hợp đồng tín dụng với nội dung: Số tiền giải ngân là 1.800.000.000 đồng (một tỷ tám trăm triệu đồng); mục đích vay là mua nhà; thời hạn vay 240 tháng, kể từ ngày 27/4/2010 đến ngày 27/4/2030; lãi suất linh hoạt; tài sản bảo đảm cho khoản vay là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số 37/258 QT, Phường 12, quận GV. Tuy nhiên, ông BĐ_Trần Quang Mến và bà BĐ_Trần Thị My đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo đúng cam kết. Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở ông BĐ_Mến và bà BĐ_My thực hiện nghĩa vụ trả nợ và bàn giao tài sản để ngân hàng xử lý thu hồi nợ nhưng ông bà vẫn không thực hiện.


847/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 528
  • 17

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

15-07-2015
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn là bà NĐ_Hoàng Thiên Hữu trình bày: Ngày 08/8/2011 bà bán cho bà BĐ_Trần Thị Minh căn nhà số 4 CLV, phường TT, quận TP. Khi ra công chứng giao tiền bà BĐ_Minh giữ lại của bà 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) và hẹn khi giao nhà sẽ giao hết số tiền trên. Hai bên có lập văn bản ghi nhận sự việc bằng giấy cam kết ngày 08/08/2011 và ngày 10/8/2011. Tuy nhiên sau khi nhận nhà phía bà BĐ_Minh vẫn không thanh toán cho bà số tiền trên. Nay, bà yêu cầu tòa án buộc bà BĐ_Minh phải trả cho bà số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) còn thiếu ngay sau khi bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật.


872/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 713
  • 16

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

21-07-2015
TAND cấp tỉnh

Ngày 16/9/2011 ông BĐ_Nguyễn Phước Linh có vay của ông NĐ_Minh số tiền là 3.500.000.000 đồng (ba tỷ năm trăm triệu đồng); ông NĐ_Minh đã giao tiền cho ông BĐ_Linh theo lệnh chi chuyển tại Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam - Chi nhánh BR. Việc vay mượn tiền giữa ông NĐ_Minh và ông BĐ_Linh chỉ thực hiện bằng lời nói, không lập thành văn bản và hai bên cũng thỏa thuận miệng lãi suất vay là 1,2%/tháng. Trong quá trình vay ông BĐ_Linh không trả tiền lãi cho ông NĐ_Minh lần nào nên vào ngày 21/4/2012 hai bên lập hợp đồng vay bằng văn bản, theo đó hai bên thỏa thuận thời hạn vay tiền là 06 tháng, lãi suất là 1,2%/tháng tính từ ngày 16/9/2011 và ông BĐ_Linh thế chấp giấy tờ nhà số 360 đường LLQ, Phường 05, Quận T, Thành phố HCM cho ông NĐ_Minh.


1158/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 3557
  • 146

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

15-09-2015
TAND cấp tỉnh

Ngày 10/01/2001 ông BĐ_Châu Văn Ngân có làm giấy sang nhượng cho ông NĐ_Nguyễn Minh Đinh 500m2 đất trong khuôn viên Công ty Hà Việt tại số 2/144 xa lộ Hà Nội, phường HP, Quận X, Thành phố HCM (nay là số 15, đường số 6, khu phố 1, phường HP, Quận X, Thành phố HCM) với tổng số tiền là 50 lượng vàng 9999. Khi thực hiện việc sang nhượng, đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà chỉ có bằng khoán của chế độ cũ đứng tên ông BĐ_Ngân. Sau khi làm giấy sang nhượng bà LQ_Nguyễn Thị Minh đã giao ngay 01 lần đủ 50 lượng vàng 9999 cho ông BĐ_Ngân tại nhà ông ở số 2/144 xa lộ Hà Nội, phường HP, Quận X. Ông BĐ_Ngân hứa khi nào hợp thức hóa xong giấy tờ sẽ làm thủ tục sang tên và giao đất.


1299/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 2722
  • 93

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

28-09-2015
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn bà NĐ_Phan Thị Đan trình bày: Ngày 18/6/2012, bà cùng ông LQ_Phạm Thanh Hoa lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích 919,9m2 thửa 191, tờ bản đồ số 35, bộ địa chính xã Hòa Phú, huyện Củ Chi của vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Văn Thịnh và BĐ_Hà Thị Minh với số tiền 600.000.000 đồng. Bà và ông Hà đã thanh toán đủ tiền cho ông Thái và bà BĐ_Minh. Tại thời điểm chuyển nhượng bà và ông Hà thấy trên đất có căn nhà cũ không ai sử dụng. Sau khi chuyển nhượng và làm thủ tục sang tên, bà và ông Hà được Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 07/9/2012.


1366/2015/DSPT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 1467
  • 33

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

30-09-2015
TAND cấp tỉnh

Ngày 19/9/2007 bà NĐ_Lê Thị Hà và gia đình ông BĐ_Huỳnh Văn Linh có thỏa thuận ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có diện tích là 1.252,57m2 kèm một con đường đi có diện tích 440m2 và một căn nhà có diện tích là 218m2, tổng diện tích là 1.910,57m2 với giá 1,8 tỷ đồng, bà NĐ_Hà đã thanh toán đầy đủ cho hộ ông BĐ_Linh. Bà NĐ_Hà đã tách thửa được một phần và được Ủy ban nhân dân Quận A cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích là 847,5m2. Diện tích còn lại thực tế đo vẽ còn 845,1m2, trên đất có căn nhà số 197 TĐ, phường TT, Quận A do hộ ông BĐ_Linh tự ý xây dựng không phép, sau khi đo vẽ thực tế căn nhà này có diện tích là 220,8 m2.


83/2014/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
  • 805
  • 21

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

03-04-2014
TAND cấp huyện

Ngày 18/01/2013 công ty có yêu cầu bà ký tiếp hợp đồng lao động không xác định thời hạn nhưng do điều kiện sức khỏe không đảm bảo nên bà có làm đơn xin nghỉ việc. Trong đơn nghỉ việc bà có ghi thời gian nghỉ việc là tới ngày 01/4/2013 và được sự đồng ý của Giám đốc xác nhận ký vào đơn xin nghỉ việc. Nhưng đến ngày 15/3/2013 Giám đốc BĐ_Công ty TNHH hóa chất Thành Phúc có gọi bà lên và báo rằng bà sẽ nghỉ việc từ ngày 16/3/2013 mà không có lý do của việc cho nghỉ việc, còn tiền lương thì đến ngày 08/4/2013 mới được lãnh. Ngày 08/4/2013, bà đến công ty nhận lương thì công ty chỉ trả cho bà 11 ngày lương tương đương với 1.173.000 đồng. Việc công ty trả lương ngày cho bà là không đúng vì lương của bà nhận hàng tháng trước đó là 3.200.000 đồng/tháng. Như vậy việc công ty cho bà thôi việc là trái với quy định, không có lý do cho nghỉ việc, không trả trợ cấp thôi việc, không trả đủ tiền lương tháng 03/2013 cho bà.