Thể lệ số 2154-TL/VB ngày 01/08/1958 Về việc quản lý các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai do Ngân hàng Quốc gia ban hành (Tình trạng hiệu lực không xác định)
- Số hiệu văn bản: 2154-TL/VB
- Loại văn bản: Văn bản khác
- Cơ quan ban hành: Ngân hàng quốc gia
- Ngày ban hành: 01-08-1958
- Ngày có hiệu lực: 13-08-1958
- Tình trạng hiệu lực: Không xác định
- Ngôn ngữ:
- Định dạng văn bản hiện có:
NGÂN HÀNG QUỐC GIA | VIỆT |
Số: 2154-TL/VB | Hà Nội, ngày 01 tháng 08 năm 1958 |
THỂ LỆ
VỀ VIỆC QUẢN LÝ CÁC LOẠI KIM KHÍ QUÝ, ĐÁ QUÝ, NGỌC TRAI
Chương 1:
ĐIỀU KHOẢN CHUNG
Điều 1. – Căn cứ Nghị định Thủ tướng Chính phủ số 355-TTg ngày 16 tháng 07 năm 1958, nay ban hành thể lệ này nhằm cụ thể hóa việc quản lý các loại kim khí, đá quý, ngọc trai để ngăn ngừa và bài trừ triệt để nạn đầu cơ, buôn lậu, xuất lậu các loại nói trên để bảo vệ tài sản quốc dân, góp phần vào việc quản lý thị trường, ổn định vật giá, ổn định tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân.
Điều 2. – Nội dung thể lệ này quy định việc mua bán, sửa chữa, chế biến, cất giữ và mang các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai và những đồ trang sức bằng các loại nói trên.
Chương 2:
MUA BÁN KIM KHÍ QUÝ, ĐÁ QUÝ NGỌC TRAI
Điều 3. – Kể từ ngày công bố lệnh thi hành Nghị định của Thủ tướng Chính phủ số 355-TTg ngày 16 tháng 07 năm 1958 về việc thống nhất kinh doanh các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai vào Ngân hàng quốc gia Việt Nam (dưới đây gọi tắc là Ngân hàng), các hiệu vàng, bạc tư doanh không được mua các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai, nhưng còn được phép bán hết hàng tồn kho.
Thời hạn các hiệu vàng, bạc được phép bán hết hàng tồn kho sẽ do các Chi nhánh Ngân hàng tỉnh căn cứ tình hình cụ thể mà quy định, nhưng nói chung thời hạn đó không quá 03 tháng. Riêng đối với các đồ mỹ nghệ nạm bạc hoặc bịt bạc thì thời hạn bán có thể dài hơn.
Việc bán hàng tồn kho của các hiệu vàng, bạc tư doanh vẫn theo thể thức cũ.
Đối với tư nhân, cấm hẳn việc buôn bán các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai.
Điều 4. – Các Chi nhánh Ngân hàng khu Tự trị, thành phố, tỉnh tổ chức mua kim khí quý cho nhân dân. Các cửa hàng mỹ nghệ vàng bạc quốc doanh ở Hà Nội, Hải Phòng ngoài việc tổ chức mua kim khí quý, mua cả đá quý, ngọc trai cho nhân dân.
Căn cứ vào nhu cầu trang sức của nhân dân và khả năng của mình, Ngân hàng các tỉnh tổ chức bán đồ trang sức, đồ mỹ nghệ bằng kim khí quý, đá quý, ngọc trai, cho nhân dân.
Giá mua và giá bán các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai và đồ trang sức, mỹ nghệ bằng các loại nói trên do Ngân hàng trung ương quy định và niêm yết tại các trụ sở Ngân hàng các cấp.
Điều 5. – Các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước cần mua kim khí quý dùng vào những công tác khoa học, kỹ thuật, y học hay làm huân chương, huy hiệu, v.v… phải có kế hoạch dự trù trước được cấp Trung ương cơ quan ấy duyệt. Ngân hàng xét để cung cấp theo khả năng và trong phạm vi kế hoạch đã duyệt.
Chương 3:
SỬA CHỮA, CHẾ BIẾN ĐỒ TRANG SỨC
Điều 6. – Những tổ chế biến hoặc thợ chuyên nghiệp được đăng ký sửa chữa, chế biến đồ trang sức, đồ mỹ nghệ bằng kim khí quý, đá quý, ngọc trai phải chịu trách nhiệm với khách hàng của mình về trọng lượng, chất lượng của món hàng đã sửa chữa hoặc chế biến. Trong hóa đơn hoặc hợp đồng về những món hàng chế biến đều phải ghi rõ trọng lượng, chất lượng và trên sản phẩm phải đóng dấu hiệu riêng của mình về tuổi vàng bạc.
Điều 7. – Ngoài việc sửa chữa, chế biến đồ trang sức cho nhân dân, các tổ chế biến hoặc thợ chuyên nghiệp đã đăng ký không được làm công việc lọc vàng, (trở vàng), không được trưng bày những mẫu hàng bằng vàng. Riêng mẫu hàng bằng bạc được trưng bày sau khi đã kê khai tại Ngân hàng.
Điều 8. – Giá công chế biến những đồ trang sức thường dùng phải theo sự quy định của Ủy ban Hành chính khu Tự trị, thành phố, tỉnh. Giá quy định nói trên các cửa hàng phải niêm yết tại nơi khách hàng dễ xem nhất.
Điều 9. – Những tổ chế biến hoặc thợ chuyên nghiệp được đăng ký phải kê khai và mở sổ sách theo đúng những thể lệ do Ngân hàng quy định và phải chịu sự kiểm soát của Ngân hàng. Khi không hoạt động nữa phải nộp lại giấy đăng ký cho Ngân hàng, không được chuyển nhượng cho người khác bất cứ dưới hình thức nào.
Điều 10. – Nếu những tổ chức chế biến hoặc thợ chuyên nghiệp được đăng ký không thi hành đúng những thể lệ đã quy định thì tùy trường hợp nặng nhẹ sẽ bị xử lý theo điều 8 trong Nghị định Thủ tướng Chính phủ số 355-TTg ngày 16 tháng 07 năm 1958.
Chương 4:
MANG CÁC LOẠI KIM KHÍ QUÝ, ĐÁ QUÝ, NGỌC TRAI VÀ NHỮNG ĐỒ TRANG SỨC BẰNG CÁC LOẠI NÓI TRÊN
Điều 11. – Mang các loại kim khí quý, đá quý, ngọc trai chưa chế biến thành đồ trang sức từ nơi này qua nơi khác trong phạm vi một thành phố, một thị xã hoặc từ huyện này qua huyện khác đều phải xin giấy phép của Ngân hàng hoặc cơ quan được ủy nhiệm cấp, trừ trường hợp mang vàng nói ở điều 13 trong thể lệ này.
Những loại vàng, bạc thoi, khối, nén, vàng lá, vàng cốm, (vàng sa, vàng đãi) vàng vụn, tiền vàng, tiền bạc hoặc đồ trang sức chế biến dở dang đều không coi là đồ trang sức. Người nào mang những thứ nói trên không có giấy phép thì coi như mang kim khí quý trái phép.
Điều 12. – Mang đồ trang sức bằng kim khí quý, đá quý, ngọc trai trên số lượng sau đây thì phải xin giấy phép:
- 1 lạng ta (37 gam 5) vàng đã đánh thành đồ trang sức;
- 10 lạng ta (375 gam) bạc đã đánh thành đồ trang sức hoặc đồ mỹ nghệ;
- 2 đồng cân bạch kim (7 gam 5) đã đánh thánh đồ trang sức;
- 3 cara (0 gam 6) mặt đá kim cương đã lắp hoặc gắn vào đồ trang sức.
Mang đồ trang sức từ số lượng nói trên đây trở xuống không phải xin giấy phép nhưng phải có đủ giấy tờ hợp pháp như hóa đơn hoặc giấy chứng nhận v.v… Những giấy tờ đó không nhất thiết phải mang theo người nhưng khi cần thiết thì phải xuất trình.
Ngoài kim cương đã quy định theo mức nói trên, những đồ trang sức bằng đá quý khác mang theo người đều phải lắp, gắn vào đồ trang sức như nhẫn mặt, hoa tai, v.v…
Đối với ngọc trai và các loại ngọc khác mang theo người nếu để rời hoặc xâu thành chuỗi quá 100 hạt đều phải xin giấy phép.
Điều 13. – Những người có số ít vàng chưa đánh thành đồ trang sức muốn mang theo người và những người muốn mang theo đồ trang sức quá số lượng đã quy định nói ở điều 12 trong thể lệ này đều phải xin giấy chứng nhận đặc biệt.
Muốn xin giấy chứng nhận đặc biệt phải đến Ngân hàng xin giấy phép để mang vàng đến Ngân hàng đóng dấu, ghi đặc điểm. Sau đó sẽ được cấp một giấy chứng nhận đặc biệt thay cho giấy mang vàng.
Khi cần thiết, Ngân hàng có thể kiểm soát những loại vàng đã được cấp giấy chứng nhận đặc biệt
Điều 14. – Mang các loại kim khí quý, đã quý, ngọc trai chưa chế biến thành đồ trang sức hoặc mang những đồ trang sức, đồ mỹ nghệ bằng các loại nói trên quá số lượng quy định ở điều 12 thì phải xin giấy phép tại:
- trong phạm vi thành phố hay thị xã thì xin giấy phép Ủy ban Hành chính quận hay thị xã. Ra ngoài thành phố hay thị xã thì phải xin giấy phép Ngân hàng thành phố hay tỉnh.
- tự huyện này qua huyện khác trong phạm vi một tỉnh phải xin giấy phép Ủy ban Hành chính xã.
- từ tỉnh này qua tỉnh khác phải xin giấy phép Ngân hàng các cấp hoặc Ủy ban Hành chính huyện ở những nơi chưa có Ngân hàng.
- giấy chứng nhận đặc biệt nói ở điều 13 trong thể lệ này do Chi nhánh Ngân hàng cấp tỉnh cấp.
Riêng đối với việc cấp giấy phép mang vàng thì Ủy ban Hành chính quận, thị xã và Ủy ban Hành chính xã chỉ được cấp giấy phép mang một số lượng không quá 3 lạng ta (112 gam 5).
Giấy phép mang kim khí quý, đá quý, ngọc trai không được cho người khác mượn.
Điều 15. – Mang vàng cốm (vàng sa, vàng đãi) ở những nơi có đãi vàng sẽ do Chi nhánh Ngân hàng tỉnh căn cứ vào tình hình cụ thể để quy định việc cấp giấy phép.
Chương 5:
ĐỐI VỚI VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC ÍT NGƯỜI
Điều 16. – Thể lệ quản lý kim khí quý, đá quý, ngọc trai này áp dụng chung cho cả những vùng đồng bào dân tộc ít người.
Nhưng để chiếu cố đến phong tục tập quán của một số vùng dân tộc ít người mà đồng bào nơi đó còn quen dùng các loại bạc nén, bạc hoa xòe (bạc trắng, bạc đồng, bạc hào) để làm đồ trang sức và trao đổi trong nội bộ về các việc ma chay, cưới xin v.v… nên quy định như sau:
a) Cho phép một số vùng dân tộc ít người được tạm thời dùng bạc nén và bạc hoa xòe trong nội bộ dân tộc ít người với nhau theo phong tục tập quán. Ngân hàng sẽ cùng với các Ủy ban Hành chính khu Tự trị và tỉnh có dân tộc ít người nghiên cứu quy định vùng tạm thời được dùng bạc nén và bạc hoa xòe.
b) Đồng bào thuộc các dân tộc ít người đeo đồ trang sức bằng bạc theo phong tục tập quán của dân tộc mình đi từ nơi này qua nơi khác không phải xin cấp giấy phép.
c) Việc mang bạc nén, bạc hoa xòe từ các vùng được tạm thời cho dùng tới các vùng cấm lưu hành thì phải xin giấy phép Ủy ban Hành chính xã nơi mình ở.
Chương 6:
CÁC ĐIỀU KHOẢN KHÁC
Điều 17. – Cấm lưu hành và tàng trữ các loại tiền bạc như bạc hoa xòe, (bạc trắng, bạc đồng, bạc hào) trừ một số vùng dân tộc ít người có quy định riêng ở điều 16 trong thể lệ này.
Điều 18. – Mọi người đều có quyền cất giữ kim khí quý, đá quý, ngọc trai. Để bảo vệ quyền lợi cho người cất giữ và tránh sự gian lậu, các Chi nhánh Ngân hàng khu Tự trị, thành phố, tỉnh sẽ căn cứ tình hình và hoàn cảnh cụ thể của địa phương để công bố các thể lệ về việc cấp giấy chứng nhận và tiến hành tổ chức việc cấp giấy chứng nhận cho nhân dân.
Trong thời gian các chi nhánh Ngân hàng chưa công bố và tổ chức việc cấp giấy chứng nhận rộng khắp trong nhân dân, nếu có người muốn kê khai để được cấp giấy chứng nhận giữ vàng thì các Chi nhánh Ngân hàng cũng có thể tiến hành cấp giấy chứng nhận giữ vàng cho những người đó.
Điều 19. – Việc xuất nhập khẩu kim khí quý, đá quý, ngọc trai thi hành theo thể lệ quản lý ngoại hối của Ngân hàng quốc gia Việt Nam.
Điều 20. – Những người làm trái thể lệ này thì xử lý theo các điều quy định trong Nghị định số 355-TTg ngày 16 tháng 07 năm 1958.
Điều 21. – Tất cả những điều quy định trước đây của Ngân hàng quốc gia Việt Nam trái với thể lệ này đều bãi bỏ.
Điều 22. – Bản thể lệ này có hiệu lực kể từ ngày công bố.
Điều 23. – Bản thể lệ này do Ngân hàng quốc gia Việt Nam ban hành, khi thay đổi cũng vậy.
| KT. TỔNG GIÁM ĐỐC |