cơ sở dữ liệu pháp lý

Thông tin văn bản
  • Chỉ thị số 11/CT-NH ngày 23/08/1994 Về công tác khoa học và công nghệ Ngân hàng (Văn bản hết hiệu lực)

  • Số hiệu văn bản: 11/CT-NH
  • Loại văn bản: Chỉ thị
  • Cơ quan ban hành: Ngân hàng Nhà nước
  • Ngày ban hành: 23-08-1994
  • Ngày có hiệu lực: 23-08-1994
  • Ngày bị bãi bỏ, thay thế: 16-10-2015
  • Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực
  • Thời gian duy trì hiệu lực: 7724 ngày (21 năm 1 tháng 29 ngày)
  • Ngày hết hiệu lực: 16-10-2015
  • Ngôn ngữ:
  • Định dạng văn bản hiện có:
Caselaw Việt Nam: “Kể từ ngày 16-10-2015, Chỉ thị số 11/CT-NH ngày 23/08/1994 Về công tác khoa học và công nghệ Ngân hàng (Văn bản hết hiệu lực) bị bãi bỏ, thay thế bởi Quyết định số 2039/QĐ-NHNN ngày 16/10/2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Về bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật”. Xem thêm Lược đồ.

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 11/CT-NH

Hà Nội, ngày 23 tháng 08 năm 1994

 

CHỈ THỊ

VỀ CÔNG TÁC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NGÂN HÀNG

Trong những năm đổi mới hoạt động Ngân hàng vừa qua, công tác khoa học và công nghệ Ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể. Hoạt động khoa học và công nghệ Ngân hàng đã đạt được những bước tiến sau đây :

Một là : Đã bám sát được thực tiễn của Việt Nam và của đối tượng phục vụ là đổi mới toàn diện ngành Ngân hàng.

Hai là : Đã kết hợp được kinh nghiệm Quốc tế với điền kiện thực tiển của Việt Nam để giải quyết những mục tiêu đối với một cách vững chắc, thực tế và có hiệu quả.

Ba là : đã và đang phát triển thành hoạt động rộng rãi, từ trung ương đến cơ sở, từ trong ngành ra ngoài ngành, động viên được lực lượng khoa học, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới toàn ngành.

Bốn là : Đã có quyết tâm khắc phục sự trì trệ trong lĩnh vực tổ chức nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động này trong thời gian tới.

Nhờ sự đóng góp nói trên, tới nay ngành Ngân hàng đã có bước chuyển căn bản về hệ thống tổ chức bộ máy, về nội dung hoạt động, về kỹ thuật nghiệp vụ, phong thái giao tiếp và năng lực điều hành.

Tuy nhiên, trước yêu cầu to lớn của quá trình hiện đại hoá và công nghiệp hoá đất nước, công tác khoa học và công nghệ Ngân hàng hiện nay còn bộc lộ nhiều thiếu sót, thể hiện trên các mặt sau đây... Một là : Còn biến chuyển chậm so với đòi hỏi của quá trình đổi mới. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học chậm hoàn thành và phát huy hiệu quả ; lý luận Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN chưa được làm sáng rõ, cơ chế nghiệp vụ công nghệ. Ngân hàng còn chậm phát triển.

Hai là : Tổ chức công tác nghiên cứu và quản lý khoa học - công nghệ còn phân tán, nhiều đầu mối, khó phối hợp kết quả với nhau, dễ gây lãng phí và phức tạp cho việc phát huy lực lượng cán bộ khoa học và tiền vốn.

Ba là : Chưa được tiến hành thật mạnh mẽ, chưa gắn chặt và theo kịp yêu cầu của thực tiến đổi mới, thường chạy sau thực tiễn, chưa đi trước tham mưu mở đường và dự báo cho thực tiễn.

Bốn là : Chất lượng các công trình nghiên cứu chưa cao, giá trị tham khảo còn thấp.

Năm là : Đội ngũ cán bộ khoa học và cán bộ làm công tác nghiên cứu, nhất là cán bộ nghiên cứu chính sách còn mỏng về số lượng và ít có điều kiện nâng cao năng lực khoa học.

Tình hình trên đây đòi hỏi phải cấp bách chấn chỉnh lại công tác khoa học, công nghệ Ngân hàng trên các lĩnh vực. Đính hướng nghiên cứu và ứng dụng, tổ chức hệ thống quản lý - nghiên cứu đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học và chính sách đối với cán bộ nghiên cứu, cán bộ khoa học.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu toàn ngành thực hiện một số chủ trương và biện pháp sau đây :

I. Công tác khoa học công nghệ Ngân hàng đến năm 2000

Từ nay đến năm 2000, ngành Ngân hàng Việt Nam phải thực hiện triệt để sự đổi mới toàn diện trên tất cả các mặt theo định hướng của Đảng và Nhà nước, Công tác khoa học - Công nghệ Ngân hàng sẽ tiếp tục được chấn chỉnh phù hợp với nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 30/3/1991 của Bộ chính trị về "Khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới" và với Nghị định 35-HĐBT ngày 28/1/1992 về công tác quản lý khoa học và công nghệ, cụ thể là :

1. Đáp ứng nhu cầu xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ thông suốt qua các công cụ điều tiết gián tiếp khối lượng tiền kiềm chế lạm phát để ổn định tiền tệ, tạo điều kiện cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.

2. Phát triển tri thức để từng bước ứng dụng công nghệ Ngân hàng tiên tiến trên tất cả các lĩnh vực hoạt động, trước hết là trong lĩnh vực thanh toán nội địa và quốc tế. Về căn bản, thay đổi bộ mặt Ngân hàng qua việc áp dụng tin học. Đa dạng hoá hình thức huy động vốn và kinh doanh dịch vụ ngân hàng. Mũi nhọn trước mắt là xây dựng và hoàn thiện thị trường theo các tiêu chuẩn quốc tế thông dụng để tạo lập môi trường huy động vốn và đầu tư.

3. Phục vụ cho việc tiếp tục tổ chức lại hệ thống Ngân hàng. Xây dựng một Ngân hàng Trung ương vững mạnh với hệ thống cơ sở thích hợp, đủ sức quản lý Nhà nước về hoạt động tiền tệ - Ngân hàng. Hệ thống Ngân hàng Thương mại Quốc doanh phát triển toàn diện nghiệp vụ và dịch vụ của một Ngân hàng đa năng hiện đại, có khả năng cạnh tranh và kinh doanh có hiệu quả, giữ vị trí độc lập trong hệ thống Ngân hàng 2 cấp.

II. Một số chính sách cụ thể đối với cán bộ khoa học và người làm công tác khoa học :

A. Chính sách ưu đãi với cá nhân cán bộ khoa học :

Cán bộ khoa học được ưu tiên bố trí thời gian, phương tiện đi lại, phương tiện thông tin và các điều kiện vật chất khác cho mục đích giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Đồng thời cán bộ khoa học cũng có nghĩa vụ tham gia đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học và thông tin khoa học cho đồng nghiệp.

- Cán bộ khoa học có tham gia đào tạo nghiên cứu sinh, có các công trình khoa học (cá nhân hoặc tập thể) từ cấp Bộ trở lên được ghi nhận để xét phong hàm giáo sư, Phó giáo sư theo quy chế chung. - Cán bộ khoa học và người làm công tác khoa học được nhận thù lao giảng dạy, viết sách, viết báo, tường thuật khoa học nghiên cứu công trình, áp dụng công trình chuyển giao công nghệ, tư vấn trong và ngoài ngành, không khống chế mức tối đa và không bắt buộc phải đóng góp cho cơ quan quản lý cán bộ (trừ trường hợp có quy định của Nhà nước).

- Cán bộ khoa học được ưu tiên mời dự cáo hội thảo chuyên đề, hội thảo khoa học, hội nghị toàn ngành (6 tháng, 1 năm) và được cung cấp miễn phí tài liệu tham khảo, (trường hợp cơ quan tổ chức có thu tiền tài liệu thì được cơ quan cử cán bộ thanh toán).

Những cán bộ khoa học không giữ các chức vụ lãnh đạo nếu có cống hiến nhiều cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học có thể được mới đặc cách tham gia các đoàn khảo sát, học tập, hội thảo khoa học ở nước ngoài.

Cán bộ khoa học ngoài ngành có đóng góp lớn cho ngành Ngân hàng sẽ có các hình thức ưu đãi thích hợp.

B. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ khoa học :

1. Việc đào tạo cán bộ khoa học thống nhất do Ngân hàng Trung ương quản lý. Những năm sắp tới, để bổ sung những khiếm khuyết của đội ngũ cán bộ khoa học hiện có, Ngân hàng Nhà nước chủ trương :

- Gấp rút bồi dưỡng kiến thức ngoại ngữ và tin học cho cán bộ khoa học có điều kiện dự học.

Những cán bộ khoa học ngành khác tuyển dụng vào Ngân hàng được ưu tiên bồi dưỡng kiến thức mới về Ngân hàng.

Cung cấp miễn phí thường xuyên tài liệu dịch để tham khảo cho tất cả các cán bộ khoa học.

2. Mở rộng diện đào tạo cán bộ khoa học nhưng đảm bảo chặt chẽ về chỉ tiêu tuyển chọn và hướng sử dụng. Để chuẩn bị lớp cán bộ trẻ thay thế dần và bổ sung cho đội ngũ cán bộ khoa học Ngân hàng hiện nay phải gấp rút gửi đi đào tạo thành cán bộ khoa học các cán bộ có yêu cầu chủ yếu sau :

- Còn trẻ.

- Có phẩm chất tốt,

- Có năng lực nghiên cứu, điều hành và có hướng phát triển tốt phục vụ cho các chuyên môn nhất định của ngành.

Cán bộ đi đào tạo được thanh toán chi phí theo chế độ chung và khi trở về phải phục vụ lâu dài cho cơ quan. Nếu được đào tạo mà không phục vụ ngành Ngân hàng đủ một số năm quy định thì cán bộ được đào tạo phải bồi hoàn chi phí đào tạo.

3. Từ nay, việc cất nhắc, đề bạt cán bộ vào các cương vị lãnh đạo, phải chú trọng hơn nữa tới cán bộ khoa học có năng lực. Phấn đấu để trong vài năm tới cán bộ lãnh đạo cấp vụ tại Ngân hàng Trung ương và cấp Giám đốc tại các Ngân hàng cơ sở có tỷ lệ cao hơn là cán bộ khoa học trẻ, có chuyên môn giỏi và ngoại ngữ tốt.

III. Tổ chức thực hiện công tác quản lý và nghiên cứu khoa học - công nghệ Ngân hàng.

A. Về tổ chức quản lý : Từ nay, công tác quản lý và nghiên cứu khoa học - công nghệ Ngân hàng được phân công như sau :

1. Giao cho trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học Ngân hàng làm đầu mối lập kế hoạch nghiên cứu khoa học - công nghệ Ngân hàng toàn ngành và tổ chức thực hiện chương trình này. Giám đốc trung tâm đào tạo - nghiên cứu khoa học Ngân hàng chỉ đạo Viện khoa học Ngân hàng phối hợp với các Vụ, Cục Ngân hàng Trung ương và với các Ngân hàng thương mại quốc doanh lập chương trình nghiên cứu khoa học (chương trình dài hạn và hàng năm) trình lên Chủ tịch Hội đồng khoa học Ngành và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước để phê duyệt. Chương trình nghiên cứu khoa học sau khi phê duyệt được gửi cho Bộ khoa học công nghệ - môi trường theo đúng quy chế quản lý Nhà nước về công tác này. Viện khoa học Ngân hàng là một tổ chức nằm trong trung tâm đào tạo - nghiên cứu khoa học Ngân hàng được thay mặt trung tâm đào tạo - nghiên cứu khoa học Ngân hàng thường trực Hội đồng Khoa học Ngành Ngân hàng để tổ chức ký hợp đồng nghiên cứu khoa học với các cá nhân và đơn vị trong, ngoài ngành Ngân hàng, đồng thời tổ chức việc nghiệm thu, đánh giá, và thanh toán công trình nghiên cứu ứng dụng trong phạm vi chương trình và dự toán được phê duyệt, đảm bảo đúng quy trình nghiệm thu, đánh giá.

Trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học Ngân hàng phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ và đào tạo xây dựng chương trình đào tạo cán bộ khoa học cho ngành. Sau này, khi được phép của Chính phủ, trung tâm sẽ là nơi đảm nhận nhiệm vụ đào tạo cán bộ có trình độ sau và trên đại học.

2. Giao cho Vụ tổ chức cán bộ và đào tạo ngành quản lý chính sách khoa học - công nghệ và trực tiếp quản lý quỹ phát triển khoa học - công nghệ Ngân hàng toàn ngành. Mặt khác, Vụ tổ chức cán bộ - Đào tạo phải lập chương trình đào tạo cán bộ khoa học toàn ngành. Trong những năm trước mắt, Vụ tổ chức cán bộ - Đào tạo phải lập chương trình đào tạo cán bộ khoa học toàn ngành. Trong những năm trước mắt, Vụ Tổ chức cán bộ - Đào tạo phối hợp với các cơ sở đào tạo và trên đại học trong nước, ngoài nước thực hiện chương trình đào tạo này ; đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết xin phép Chính phủ giao cho trung tâm đào tạo - nghiên cứu khoa học Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ trên.

3. Giao cho Vụ kế toán tài chính hướng dẫn các Ngân hàng thương mại Quốc doanh và các đơn vị có liên quan việc trích nộp quỹ phát triển khoa học công nghệ Ngân hàng theo đúng Quyết định số 84-QĐ/TCCB ngày 18/05/1992 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Thông tư Liên Bộ Tài chính - Khoa học công nghệ và môi trường số 1291-KHCNMT-TC ngày 8/10/1992. Trong trường hợp có sự thay đổi cơ chế tài chính có ảnh hưởng tới Quỹ, Vụ kế toán - Tài chính cần bố trí nguồn vốn để đảm bảo thực hiện tốt các chương trình nghiên cứu khoa học.

4. Giao cho các Vụ, Cục Ngân hàng Trung ương, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc , giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố, Tổng Giám đốc Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng Đầu tư phát triển, Tổng công ty vàng bạc đá quý xây dựng chương trình nghiên cứu khoa học - công nghệ của đơn vị mình thông qua Viện khoa học Ngân hàng. Trường hợp công trình nghiên cứu có liên quan tới nhiều đơn vị sẽ do Viện khoa học Ngân hàng phối hợp xây dựng. Các đơn vị có trách nhiệm đóng góp đầy đủ vào quỹ phát triển khoa học - công nghệ Ngân hàng hàng năm và được sử dụng quỹ này theo đúng quy định của Thống đốc tại Quyết định số 225/QĐ ngày 7/10/1992.

Tổng Giám đốc các Ngân hàng thương mại quốc doanh phải bố trí một cán bộ lãnh đạo phụ trách công tác khoa học và phải củng cố lại Hồi đồng khoa học cơ sở.

5. Để nâng cao tính kho học và tinh thần trách nhiệm của cán bộ khoa học, từ nay khi xây dựng các chính sách lớn về Ngân hàng, các Vụ chức năng cần tổ chức các cuộc hội thảo, tư vấn rộng rãi trong giới khoa học trong, ngoài ngành trước khi trình Thống đốc phê duyệt. Chủ tịch Hội đồng khoa học ngành chủ trì công việc này. Các công trình nghiên cứu sau khi hoàn thành phải được thông tin rộng rãi và tổ chức khai thác trong ngành.

B. Một số biện pháp ưu tiên cho hoạt động của Viện khoa học Ngân hàng và trung tâm đào tạo nghiên cứu khoa học Ngân hàng.

Các đơn vị, tuỳ theo chức năng của mình, phải tạo điều kiện để Viện khoa học Ngân hàng và Trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học Ngân hàng.

- Được cung cấp đầy đủ các điều kiện vật chất để thực hiện công tác nghiên cứu khoa học - Thông tin Ngân hàng.

- Được ưu tiên chỉ tiêu biên chế tuyển dụng cán bộ khoa học có trình độ cao để làm công tác đào tạo, quản lý và tổ chức nghiên cứu khoa học.

- Được ưu tiên cử cán bộ có năng lực di nghiên cứu, khảo sát, đào tạo trong nước và ngoài nước.

- Được quan hệ hợp tác trực tiếp với các tổ chức quốc tế và đào tạo và nghiên cứu khoa học theo sự uỷ quyền của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

- Củng cố ngày bộ máy và bổ nhiệm đầy đủ chức danh cán bộ lãnh đạo cho phân Viện tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Chỉ thị này phải được phổ biến rộng rãi trong toàn ngành và tới từng cán bộ khoa học. Các Vụ, Cục Ngân hàng Trung ương theo chức năng của mình hướng dẫn các đơn vị thực hiện. Những yêu cầu mới nảy sinh, Vụ tổ chức cán bộ và đào tạo phải tập hợp, nghiên cứu, trình Thống đốc bổ sung, sửa đổi kịp thời.

 

 

THỐNG ĐỐC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC




Cao Sỹ Kiêm