Thông tư số 31-TC/NLTL ngày 14/10/1986 Hướng dẫn chế độ phân phối lợi nhuận và trích lập quỹ Xí nghiệp trong các Xí nghiệp Nông nghiệp quốc doanh (Văn bản hết hiệu lực)
- Số hiệu văn bản: 31-TC/NLTL
- Loại văn bản: Thông tư
- Cơ quan ban hành: Bộ Tài chính
- Ngày ban hành: 14-10-1986
- Ngày có hiệu lực: 01-07-1986
- Ngày bị bãi bỏ, thay thế: 16-10-1999
- Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực
- Thời gian duy trì hiệu lực: 4855 ngày (13 năm 3 tháng 20 ngày)
- Ngày hết hiệu lực: 16-10-1999
- Ngôn ngữ:
- Định dạng văn bản hiện có:
BỘ TÀI CHÍNH | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 31-TC/NLTL | Hà Nội, ngày 14 tháng 10 năm 1986 |
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 31-TC/NLTL NGÀY 14-10-1986
I- NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Thông qua chế độ phân phối lợi nhuận xí nghiệp nông nghiệp, phải khuyến khích các đơn vị khai thác đầy đủ năng lực của vườn cây, đàn gia súc, gia cầm trong năm kế hoạch, nhưng đồng thời phải chú ý đến việc thâm canh cho lợi ích lâu dài.
2. Căn cứ để thực hiện chế độ phân phối lợi nhuận là số lợi nhuận kế hoạch và lợi nhuận thực tế đạt được của xí nghiệp nông nghiệp:
- Lợi nhuận kế hoạch hàng năm của xí nghiệm được xác định trên cơ sở tổng doanh thu kế hoạch tính theo giá bán sản phẩm (sau khi đã trừ đi các khoản chênh lệch giá nếu có) trừ đi tổng giá thành kế hoạch và thu quốc doanh (hoặc thuế) phải nộp.
Lợi nhuận kế hoạch của xí nghiệp nông nghiệp bao gồm toàn bộ lợi nhuận của các phần sản xuất kinh doanh như sản xuất chính, sản xuất phụ, lợi nhuận do xây dựng cơ bản tự làm như khai hoang, trồng mới, chăm sóc thời kỳ kiến thiết cơ bản... phải được kế hoạch hoá trong một kế hoạch sản xuất - kỹ thuật - tài chính thống nhất của đơn vị.
- Lợi nhuận thực hiện của xí nghiệp bao gồm các khoản lợi nhuận nói trên và được xác định trên cơ sở tổng doanh thu thực hiện trừ đi tổng giá thành thực tế được duyệt, trừ đi thu quốc doanh (kể cả khoản thu quốc doanh bổ sung) hoặc thuế và khoản thu về chênh lệch giá (giữa giá bán kế hoạch và giá bán thực tế) nếu có.
3. Lợi nhuận của sản xuất phụ bằng phế liệu phế phẩm, bằng tận dụng đất đai trồng xen các loại cây trồng để cải tạo đất... được phân phối theo tỷ lệ khuyến khích, các khoản lợi nhuận còn lại được phân phối theo những tỷ lệ thống nhất.
Phần lợi nhuận vượt kế hoạch được khuyến khích với tỷ lệ phần trăm để lại xí nghiệp cao hơn.
Ngược lại nếu xí nghiệp không hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh thì sẽ phạt trừ vào phần lợi nhuận để lại xí nghiệp nhằm tránh tình trạng xí nghiệp chỉ chạy theo lợi nhuận, hạch toán tăng lợi nhuận không chú ý thực hiện đầy đủ quy trình thâm canh nên không hoàn thành chỉ tiêu số lượng và chất lượng sản phẩm gây tác hại lâu dài đến vườn cây và đàn gia súc.
4. Căn cứ để tính mức trích quỹ xí nghiệp là lợi nhuận thực hiện của xí nghiệp, còn điều kiện để được trích lập quỹ xí nghiệp là lợi nhuận nộp ngân sách Nhà nước và các chỉ tiêu pháp lệnh chủ yếu khác.
Xí nghiệp được thực hiện việc trích lập 3 quỹ kịp thời ngay từng quý trong năm, sau khi hoàn thành nghĩa vụ thu nộp ngân sách Nhà nước theo kế hoạch.
5. Mở rộng hơn phạm vi sử dụng lợi nhuận, phạm vi sử dụng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, nhằm nâng cao quyền tự chủ của xí nghiệp trong phần sử dụng lợi nhuận để lại cho xí nghiệp.
Tổng số lợi nhuận kế hoạch của xí nghiệp (trừ lợi nhuận sản xuất phụ) được phân phối theo tỷ lệ: để lại xí nghiệp 50% và nộp ngân sách Nhà nước 50%.
Riêng đối với lợi nhuận kế hoạch của sản phẩm sản xuất phụ được kế hoạch hoá để lại xí nghiệp 70% và nộp ngân sách Nhà nước 30%.
Toàn bộ phần lợi nhuận để lại xí nghiệp theo kế hoạch được phân phối cho 3 quỹ theo tỷ lệ quy định như sau:
- Cho quỹ khuyến khích phát triển sản xuất từ 35 đến 50% mức cụ thể trong khoảng từ 35 đến 50% do Bộ, Sở chủ quản quy định cho phù hợp với yêu cầu và đặc điểm sản xuất của từng xí nghiệp, từng ngành (trồng trọt, chăn nuôi).
- Số lợi nhuận trích vào 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi trong đó khoảng 2/3 cho quỹ khen thưởng và khoảng 1/ 3 cho quỹ phúc lợi do Giám đốc xí nghiệp quyết định sau khi có ý kiến tham gia của công đoàn cơ sở.
Xí nghiệp không được lấy phần lợi nhuận và phần khấu hao cơ bản phải nộp ngân sách Nhà nước hoặc các khoản phải nộp khác để trả nợ tiền vay Ngân hàng về đầu tư mua sắm tài sản cố định.
2. Thực hiện phân phối lợi nhuận.
Trên cơ sở tổng số lợi nhuận kế hoạch, số lợi nhuận phải nộp ngân sách của xí nghiệp nói trên được duyệt và trở thành chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước giao cho xí nghiệp.
Số lợi nhuận phải nộp ngân sách Nhà nước theo kế hoạch được phân thành các quỹ căn cứ vào thời vụ thu hoạch và tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp. Xí nghiệp có nhiệm vụ nộp đầy đủ kịp thời vào ngân sách Nhà nước theo kế hoạch và phần lợi nhuận vượt kế hoạch.
Số được trích 3 quỹ theo kế hoạch cả năm nói trên được phân ra các quý và xí nghiệp được tạm trích 70% vào mỗi quỹ trong các quý, sau khi đã hoàn thành việc nộp lợi nhuận và các khoản thu khác vào ngân sách Nhà nước theo kế hoạch được duyệt của quý đó và có ý kiến xác nhận của cơ quan tài chính (Chi cục thu quốc doanh và quản lý xí nghiệp Trung ương đối với các đơn vị xí nghiệp Trung ương, hoặc tài chính địa phương đối với các xí nghiệp địa phương).
Hết năm khi xét duyệt quyết toán (bao gồm việc xét duyệt để trích lập chính thức các quỹ xí nghiệp) xí nghiệp sẽ được tính toán đầy đủ số trích lập 3 quỹ theo thứ tự như sau:
- Tổng số lợi nhuận thực hiện trong phạm vi của số kế hoạch lợi nhuận đã được duyệt thì phân phối như quy định ở mục 1 phần II nói trên, 50% nộp ngân sách Nhà nước, 50% để lại xí nghiệp đối với sản xuất chính, đối với lợi nhuận của phần sản xuất phụ, 30% nộp ngân sách Nhà nước, 70% để lại xí nghiệp. Trường hợp xí nghiệp không hoàn thành kế hoạch nộp lợi nhuận của sản xuất chính (trên cơ sở lợi nhuận thực hiện) thì số lợi nhuận của sản xuất phụ thuộc phải nộp ngân sách 50%, để lại xí nghiệp 50%.
Tỷ lệ phân phối lợi nhuận của sản xuất phụ được áp dụng chung cho cả phần trong kế hoạch và vượt kế hoạch.
Lợi nhuận thực hiện vượt kế hoạch của kế hoạch sản xuất chính được phân phối như sau: nộp ngân sách Nhà nước 20%, để lại xí nghiệp 80%.
Phần lợi nhuận để lại xí nghiệp (kể cả trong kế hoạch và vượt kế hoạch) được phân phối cho 3 quỹ theo tỷ lệ quy định như ở điểm 1 mục II, sau khi trừ đi các khoản phải nộp phạt về vi phạm hợp đồng kinh tế, phạt vi phạm kỷ luật tiền mặt, tín dụng thanh toán, chi trả các khoản bất hợp lý, bất hợp lệ không được hạch toán vào giá thành như các khoản chi phí tiêu cực, lãng phí, v.v...
Nếu xí nghiệp không hoàn thành 3 (hoặc 2, hoặc 1 tuỳ theo loại xí nghiệp) chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chủ yếu nói sau đây:
- Giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện (trong đó ghi rõ kim ngạch xuất khẩu nếu có).
- Sản phẩm chủ yếu với quy cách và chất lượng quy định tiêu thụ theo kế hoạch và hợp đồng (trong đó ghi rõ phần cho quốc phòng và cho xuất khẩu nếu có).
- Các khoản nộp ngân sách (phần lợi nhuận nộp và các khoản nộp khác).
Thì cứ mỗi phần trăm không hoàn thành về 1 trong 2 chỉ tiêu thứ nhất và thứ hai phải trừ đi 2% số tiền được trích cho mỗi quỹ (3 quỹ), và mỗi phần trăm không hoàn thành chỉ tiêu thứ 3, phải trừ đi 3% số tiền được trích cho mỗi quỹ.
Khi đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch chỉ tiêu " các khoản nộp ngân sách" cần phải so sánh tổng số các khoản nộp thực tế với tổng số các khoản nộp theo kế hoạch và phần tương ứng vượt kế hoạch nộp bao gồm số nộp lợi nhuận thu quốc doanh (hoặc thuế), khấu hao cơ bản phải nộp và các khoản phải nộp khác như chênh lệch giá nếu có... và các khoản nộp thực tế đó chỉ được xác nhận trong phạm vi của số phát sinh phải nộp.
Ví dụ :
Đơn vị: triệu đồng
| | | Số đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch nộp ngân sách | ||||
| Tổng số phát sinh | Số phải nộp | Tổng số phát sinh | Số phải nộp | Số đã nộp trong năm | Tổng số | Tỷ lệ hoàn thành |
Lợi nhuận Thu quốc doanh Khấu hao cơ bản | 18 10 6 | 9 10 3 | 16 15 4 | 8 15 2 | 10 11 2 | 8 11 2 | |
| | 22 | 35 | 25 | 23 | 21 | 21x100 22 = 95,45% |
Các số phạt trừ nói trên vào 3 quỹ của xí nghiệp phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
Điều kiện về thời điểm xí nghiệp được trích đủ (100%) số lợi nhuận để lại xí nghiệp lập 3 quỹ theo những quy định nói trên là xí nghiệp phải hoàn thành 100% số lợi nhuận phải nộp vào ngân sách Nhà nước theo quy định (có xác nhận của cơ quan tài chính cùng cấp) trên cơ sở số liệu xét duyệt quyết toán hàng năm cho xí nghiệp.
3. Đối với những đơn vị có lỗ theo chính sách giá cả của Nhà nước và nằm trong danh mục những xí nghiệp được Nhà nước cho phép cấp bù lỗ thì áp dụng phương thức phân phối lợi nhuận như sau:
Xí nghiệp được hưởng mức trích cơ bản vào 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi là 2 tháng lương cơ bản thực hiện trong năm, trong đó khoảng 2/3 cho quỹ khen thưởng và 1/3 cho quỹ phúc lợi.
Mức trích cơ bản vào quỹ khuyến khích phát triển sản xuất của xí nghiệp được tính bằng 1% nguyên giá tài sản cố định bình quân dùng trong năm và tài sản lưu động trong định mức.
Nếu xí nghiệp không hoàn thành 2 (hoặc 1 tuỳ theo loại xí nghiệp) chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chủ yếu cả năm nói sau đây thì cứ mỗi phần trăm không hoàn thành về 1 chỉ tiêu phải trừ đi 2% vào mức trích cơ bản của mỗi quỹ (3 quỹ):
- Giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện (trong đó nói rõ kim ngạch xuất khẩu, nếu có).
- Sản phẩm chủ yếu với quy cách và chất lượng quy định theo kế hoạch và hợp đồng (trong đó ghi rõ phần cho quốc phòng và xuất khẩu, nếu có).
Riêng chỉ tiêu lỗ thực hiện (kể cả các khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế, phạt vi phạm kỷ luật tiền mặt tín dụng, thanh toán, các khoản chi bất hợp lý, bất hợp lệ không được hạch toán vào giá thành như các khoản chi phí tiêu cực, lãng phí) cứ mỗi phần trăm tăng lỗ so với kế hoạch phải trừ đi 3% số tiền được trích cho mỗi quỹ (3 quỹ). Khi đánh giá mức độ hoàn thành chỉ tiêu này, xí nghiệp được loại trừ khoản lỗ tăng do Nhà nước tăng giá vật tư và tăng sản lượng tiêu thụ.
Nếu xí nghiệp vi phạm chế độ chính sách quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước như vi phạm các chế độ báo cáo thống kê - kế toán nộp không đầy đủ, không kịp thời các khoản nộp vào ngân sách Nhà nước kể cả các khoản phải nộp vượt kế hoạch, thì cứ mỗi vi phạm tuỳ theo mức độ vi phạm mà giảm trừ từ 2 đến 5% số tiền được trích của mỗi quỹ (3 quỹ).
Nếu xí nghiệp có giảm lỗ kế hoạch do đã phấn đấu chủ quan làm hạ giá thành sản phẩm thì được coi số giảm lỗ như lãi vượt kế hoạch và được trích thêm vào 3 quỹ với mức trích tổng số bằng 80% số đã giảm lỗ so với kế hoạch. Mức phân bổ vào mỗi quỹ cũng như quy định ở điểm 1, mục II của Thông tư này.
Các xí nghiệp loại này cũng được tạm cấp 70% số trích vào 3 quỹ theo kế hoạch hàng quý, sau khi hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch lỗ và các khoản phải nộp ngân sách và có ý kiến xác nhận của cơ quan thu quốc doanh hoặc tài chính địa phương.
Số chính thức được cấp để trích lập 3 quỹ theo những quy định nói trên sẽ dựa trên cơ sở số liệu xét duyệt quyết toán hàng năm của xí nghiệp.
4. Việc trích lập và sử dụng các quỹ dự trữ tài chính và quỹ Bộ trưởng ở các cơ quan quản lý cấp trên được quy định như sau:
a) Xí nghiệp sử dụng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất để bổ sung cho nhu cầu tăng vốn lưu động, vốn tự có về đầu tư xây dựng cơ bản theo chiều sâu, phát triển mặt hàng mới, mở rộng sản xuất chính và sản xuất phụ, nộp lên cơ quan quản lý cấp trên để lập quỹ nghiên cứu khoa học kỹ thuật tập trung theo kế hoạch hàng năm của xí nghiệp.
Trích từ 1 đến 3% quỹ khuyến khích phát triển sản xuất của các xí nghiệp để lập quỹ dự trữ tài chính tập trung ở các cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp như Tổng công ty, Liên hiệp các xí nghiệp (không hạch toán kinh tế tập trung) hoặc Bộ chủ quản. Mức cụ thể (từ 1 - 3%) do các cơ quan quản lý cấp trên đó quy định căn cứ vào nhu cầu cụ thể của từng ngành. ở cấp Bộ được lập quỹ dự trữ tài chính tập trung bằng nguồn trích từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất của những đơn vị trực thuộc hạch toán kinh tế độc lập.
b) Các tổng công ty, liên hiệp xí nghiệp không phải là những đơn vị hạch toán kinh tế tập trung đã được trích lập quỹ dự trữ tài chính thì không phải nộp lên Bộ chủ quản để lập quỹ này ở cấp Bộ.
Đối với các đơn vị cơ sở kinh tế địa phương, quỹ dự trữ tài chính chỉ được lập ở các Liên hiệp xí nghiệp, Tổng công ty không hạch toán kinh tế tập trung, không lập quỹ này ở các cơ sở chủ quản.
Quỹ dự trữ tài chính tập trung ở Tổng công ty, Liên hiệp xí nghiệp hoặc Bộ chủ quản được sử dụng để hỗ trợ kịp thời những khó khăn bất thường về tài chính cho các đơn vị xí nghiệp cơ sở trực thuộc theo những nguyên tắc cấp phát có hoàn lại hoặc không hoàn lại do cơ quan chủ quản cấp trên có quỹ đó quyết định.
c) Dành 1% quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng của xí nghiệp để lập quỹ Bộ trưởng. Nếu cấp trên trực thuộc của xí nghiệp là Liên hiệp các xí nghiệp, Tổng công ty không phải là những đơn vị hạch toán kinh tế tập trung thì 1% đó được trích làm 2 phần: 0,5% để lập quỹ Tổng giám đốc Liên hiệp các xí nghiệp, Tổng giám đốc Công ty và 0,5% được chuyển lên Bộ để lập quỹ Bộ trưởng. Trường hợp Liên hiệp các xí nghiệp, Tổng công ty là những đơn vị hạch toán kinh tế tập trung thì phải dành 1% quỹ phúc lợi và khen thưởng của mình để lập quỹ Bộ trưởng (có chế độ riêng quy định sử dụng quỹ Bộ trưởng).
5. Không hạn chế mức tối đa quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi nhưng khi tổng số trích vào 2 quỹ đó vượt quá 50% quỹ lương cơ bản thực hiện cả năm của công nhân viên chức xí nghiệp, thì xí nghiệp phải nộp một khoản điều tiết theo tỷ lệ luỹ tiến như sau:
- Từ 51 đến 70% quỹ lương cơ bản thực hiện, xí nghiệp phải nộp vào ngân sách Nhà nước 50% và 10% nộp cơ quan quản lý cấp trên để lập quỹ dự trữ tài chính, số còn lại 40% bổ sung vào các quỹ xí nghiệp, vào quỹ nào, bao nhiêu do giám đốc xí nghiệp quyết định.
- Từ 71% quỹ lương cơ bản thực hiện trở đi, xí nghiệp phải nộp vào ngân sách Nhà nước 70% và 10% nộp lên cơ quan quản lý cấp trên để lập quỹ dự trữ tài chính, số còn lại 20% để bổ sung vào các quỹ xí nghiệp do Giám đốc xí nghiệp quyết định.
6. Đối với các cơ quan Liên hiệp xí nghiệp, Tổng công ty không phải là những đơn vị hạch toán kinh tế độc lập (không thuộc đối tượng xét trích lập 3 quỹ xí nghiệp) được trích lập quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi bằng mức trích bình quân thực tế đạt được 2 quỹ đó trên đầu người tổng số công nhân viên chức các đơn vị trực thuộc xí nghiệp và Tổng công ty. Nguồn trích lập hai quỹ khen thưởng và phúc lợi của cơ quan Liên hiệp xí nghiệp và Tổng công ty là phần lợi nhuận để lại xí nghiệp của các đơn vị xí nghiệp trực thuộc. Mức phân bổ cho từng đơn vị xí nghiệp trực thuộc do Giám đốc Liên hiệp xí nghiệp, Tổng Công ty quyết định tuỳ theo yêu cầu và khả năng cụ thể của từng đơn vị xí nghiệp.
2. Các đơn vị cơ sở phải đăng ký kế hoạch trích lập 3 quỹ có phân bổ ra từng quý với cơ quan tài chính cùng cấp và ngân hàng địa phương và được trích hàng quý như quy định ở mục II Thông tư này.
3. Khi duyệt quyết toán chính thức hàng năm cho đơn vị cơ sở, cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính cấp trên với sự tham gia của các cán bộ chuyên quản tài chính xí nghiệp tại địa phương duyệt số lợi nhuận chính thức để lại xí nghiệp trích lập 3 quỹ và các nhu cầu khác như quy định ở điểm 2, mục II Thông tư này và xác định số lợi nhuận nộp ngân sách Nhà nước. Nếu xí nghiệp sử dụng quá số lợi nhuận để lại được duyệt, thì phải trừ vào số trích của năm sau và ngược lại nếu thiếu được trích thêm.
4. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-1986 và được áp dụng cho việc phân phối lợi nhuận cả năm 1986 của các xí nghiệp nông nghiệp quốc doanh Trung ương và địa phương thuộc tất cả các ngành kinh tế. Những quy định trước đây trái với Thông tư này đều bị bãi bỏ.
| Hồ Tế (Đã Ký) |