Thông tư số 26-TC/ĐTXD ngày 13/09/1986 Hướng dẫn chế độ phân phối lợi nhuận và trích lập quỹ xí nghiệp trong xây dựng cơ bản (Văn bản hết hiệu lực)
- Số hiệu văn bản: 26-TC/ĐTXD
- Loại văn bản: Thông tư
- Cơ quan ban hành: Bộ Tài chính
- Ngày ban hành: 13-09-1986
- Ngày có hiệu lực: 01-07-1986
- Ngày bị bãi bỏ, thay thế: 16-10-1999
- Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực
- Thời gian duy trì hiệu lực: 4855 ngày (13 năm 3 tháng 20 ngày)
- Ngày hết hiệu lực: 16-10-1999
- Ngôn ngữ:
- Định dạng văn bản hiện có:
BỘ TÀI CHÍNH | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 26-TC/ĐTXD | Hà Nội, ngày 13 tháng 9 năm 1986 |
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 26-TC/ĐTXD
2. Căn cứ để thực hiện chế độ phân phối lợi nhuận là số lợi nhuận kế hoạch và lợi nhuận thực tế đạt được của đơn vị xí nghiệp:
- Lợi nhuận kế hoạch hàng năm của xí nghiệp được xác định trên cơ sở giá trị sản lượng xây lắp, khảo sát, thiết kế quy hoạch và thiết kế công trình xây dựng thực hiện được nghiệm thu, thanh toán tính theo giá dự toán được lập theo định mức, đơn giá Nhà nước quy định (sau khi đã trừ đi các khoản chênh lệch giá nếu có), trừ đi giá thành kế hoạch.
- Lợi nhuận sản xuất chính, sản xuất phụ bằng phế liệu, phế phẩm và các khoản lợi nhuận khác (như lợi nhuận sản xuất phụ trợ, lợi nhuận kinh doanh ngoài cơ bản, lợi nhuận do cung ứng lao vụ cho bên ngoài...) kế hoạch hoá trong một kế hoạch sản xuất - kỹ thuật tài chính thống nhất của xí nghiệp.
- Lợi nhuận thực hiện của xí nghiệp bao gồm các khoản lợi nhuận của các phần sản xuất nói trên và được xác định trên cơ sở giá trị sản lượng xây lắp, khảo sát, thiết kế quy hoạch, thiết kế công trình xây dựng thực hiện đã được nghiệm thu thanh toán trừ đi giá thành thực tế được duyệt và trừ đi các khoản thu về chênh lệch giá nếu có.
3. Ngoài khoản lợi nhuận sản xuất phụ bằng phế liệu, phế phẩm được phân phối theo những tỷ lệ được khuyến khích, các khoản lợi nhuận còn lại được phâm phối theo những tỷ lệ thống nhất.
4. Để khuyến khích xí nghiệp hoàn thành vượt mức kế hoạch được duyệt, phần vượt kế hoạch về lợi nhuận được khuyến khích với tỷ lệ phần trăm để lại xí nghiệp cao hơn.
Ngược lại, nếu xí nghiệp không hoàn thành toàn diện những chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước thì sẽ bị phạt trừ vào phần lợi nhuận để lại xí nghiệp.
5. Mở rộng hơn phạm vi sử dụng lợi nhuận, phạm vi sử dụng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng nhằm nâng cao quyền tự chủ của xí nghiệp trong việc sử dụng phần lợi nhuận để lại xí nghiệp.
1. Lợi nhuận kế hoạch của xí nghiệp sau khi dành một phần để trả tiền lãi vay ngân hàng về tài sản cố định được đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng (nếu có) được phân phối như sau:
- Nộp ngân sách Nhà nước: 50%
- Để lại xí nghiệp: 50%
Riêng đối với phần lợi nhuận kế hoạch của sản xuất phụ bằng phế liệu, phế phẩm được để lại xí nghiệp 70%, nộp ngân sách Nhà nước 30%.
2. Toàn bộ phần lợi nhuận để lại xí nghiệp theo kế hoạch được phân phối cho 3 quỹ theo tỷ lệ quy định như sau:
- Cho quỹ khuyến khích phát triển sản xuất từ 35% đến 50%.
- Số còn lại cho 2 quỹ (khen thưởng và phúc lợi), trong đó khoảng 1/3 cho quỹ phúc lợi, 2/3 cho quỹ khen thưởng. Tỷ lệ cụ thể do giám đốc xí nghiệp quyết định sau khi có ý kiến tham gia của công đoàn cơ sở.
B. THỰC HIỆN PHÂN PHỐI LỢI NHUẬN:
1. Trên cơ sở tổng số lợi nhuận kế hoạch, số lợi nhuận phải nộp ngân sách Nhà nước của xí nghiệp nói trên được duyệt và trở thành chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước giao cho xí nghiệp.
Số lợi nhuận phải nộp ngân sách Nhà nước theo kế hoạch được phân thành 4 quý và xí nghiệp có trách nhiệm nộp đều đặn hàng tháng (hoặc theo định kỳ) vào ngân sách Nhà nước.
Số lợi nhuận được trích lập 3 quỹ theo kế hoạch cả năm được phân ra làm 4 quý, và hàng quý xí nghiệp được tạm trích 70% vào mỗi quỹ sau khi đã hoàn thành việc nộp lợi nhuận và các khoản thu khác vào ngân sách Nhà nước hàng quý theo kế hoạch được duyệt và có ý kiến xác nhận của cơ quan tài chính (chi cục thu quốc doanh và quản lý tài chính xí nghiệp trung ương - đối với các đơn vị xí nghiệp trung ương; hoặc tài chính địa phương - đối với các xí nghiệp địa phương).
2. Hết năm, khi xét duyệt quyết toán và mức trích lập các quỹ xí nghiệp chính thức, xí nghiệp sẽ được xác định phần lợi nhuận để lại theo quy định như sau:
- Phần lợi nhuận thực hiện trong kế hoạch được phân phối theo như điểm 1, phần A, mục II trên đây (50% nộp ngân sách Nhà nước, 50% để lại xí nghiệp).
Riêng đối với lợi nhuận sản xuất phụ bằng phế liệu, phế phẩm thì tỷ lệ phân phối lợi nhuận được áp dụng chung cho cả phần trong kế hoạch và vượt kế hoạch: 70% để lại xí nghiệp, 30% nộp ngân sách nhà nước (nếu xí nghiệp hoàn thành kế hoạch lợi nhuận của sản xuất chính); 50% để lại xí nghiệp, 50% nộp ngân sách Nhà nước (nếu xí nghiệp không hoàn thành kế hoạch lợi nhuận của sản xuất chính).
- Phần lợi nhuận được thực hiện vượt mức kế hoạch (kể cả sản xuất phụ trợ hoặc cung cấp lao vụ cho bên ngoài và kinh doanh ngoài cơ bản nếu có) được phân phối như sau:
Đối với xí nghiệp xây lắp, khảo sát xây dựng nộp ngân sách Nhà nước 20%, để lại xí nghiệp 80%
Đối với xí nghiệp thiết kế quy hoạch nộp ngân sách Nhà nước 40%, để lại xí nghiệp 60%.
3. Phần lợi nhuận để lại xí nghiệp (kể cả trong kế hoạch và vượt kế hoạch) sau khi trừ đi các khoản nộp phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, phạt vi phạm kỷ luật quản lý tiền mặt, tín dụng, thanh toán và các khoản cho phí bất hợp lý, bất hợp lệ không được hạch toán vào giá thành, được phân phối vào các quỹ như quy định ở điểm 2, phần A, mục II trên đây.
4. Trường hợp xí nghiệp không hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh cả năm nói sau đây thì tổng số 3 quỹ sẽ bị giảm trừ.
- Đối với chỉ tiêu giá trị sản lượng xây lắp, khảo sát, quy hoạch, thiết kế xây dựng thực hiện đã được nghiệm thu thanh toán thì cứ mỗi phần trăm (1%) không hoàn thành thì phạt trừ 2% vào mỗi quỹ (3 quỹ).
- Đối với chỉ tiêu danh mục công trình, hạng mục công trình hoàn thành bàn giao thì cứ mỗi công trình hoặc hạng mục công trình hoàn thành bàn giao chậm, mức giảm trừ được tính theo tỷ lệ phần trăm vào mỗi quỹ (3 quỹ) cụ thể như sau:
Thời gian chậm | Đối với hạng mục công trình | Đối với công trình |
Chậm dưới 3 tháng Chậm từ 3 tháng trở lên | 2% 5% | 5% 10% |
5. Ngoài ra nếu xí nghiệp vi phạm chế độ chính sách quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước kể dưới đây, thì cứ mỗi vi phạm tuỳ theo mức độ vi phạm mà giảm trừ từ 2% đến 5% số tiền được trích cho mỗi quỹ (3 quỹ).
- Nộp không kịp thời các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước theo kế hoạch hàng quý, bao gồm lợi nhuận, thu quốc doanh, khấu hao cơ bản và các khoản phải nộp khác như chênh lệch giá (nếu có)...
- Vi phạm các chế độ báo cáo thống kê, quyết toán.
Số tiền phạt trừ quy định tại điểm 4 và điểm 5 nói trên, xí nghiệp phải nộp ngân sách Nhà nước.
6. Không hạn chế mức trích tối đa vào quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi, nhưng khi số lợi nhuận trích vào cả 2 quỹ này vượt quá 50% quỹ lương cơ bản thực hiện cả năm của tổng số công nhân viên xây lắp (khảo sát, thiết kế, quy hoạch) của xí nghiệp, thì số vượt quá này được phân phối như sau:
- Vượt từ trên 50% đến 70% quỹ lương cơ bản thực hiện, xí nghiệp phải nộp ngân sách Nhà nước 50%, nộp lên cơ quan quản lý cấp trên để lập quỹ dự trữ tài chính (nếu có) 10%, số còn lại bổ sung vào các quỹ; xí nghiệp vào quỹ nào, bao nhiêu do giám đốc xí nghiệp quyết định.
- Vượt từ trên 70% quỹ lương cơ bản thực hiện, xí nghiệp phải nộp ngân sách Nhà nước 70%, nộp lên cơ quan quản lý cấp trên để lập quỹ dự trữ tài chính (nếu có) 10%, số còn lại bổ sung vào các quỹ xí nghiệp; vào quỹ nào, bao nhiêu, do giám đốc xí nghiệp quyết định.
Thời điểm để xí nghiệp được trích đủ (100%) số lợi nhuận để lại xí nghiệp lập 3 quỹ theo những quy định nói trên là xí nghiệp phải hoàn thành 100% số lợi nhuận phải nộp vào ngân sách Nhà nước theo quy định (có xác nhận của cơ quan tài chính cùng cấp) trên cơ sở số liệu xét duyệt quyết toán hàng năm cho xí nghiệp.
7. Mức trích quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi bình quân trên đầu người của cơ quan liên hiệp các xí nghiệp (tổng công ty) không phải là những đơn vị hạch toán kinh tế tập trung bằng mức trích bình quân thực tế đạt được 2 quỹ đó trên đầu người tổng số công nhân viên của toàn liên hiệp các xí nghiệp (tổng công ty).
Nguồn trích lập 2 quỹ khen thưởng và phúc lợi của cơ quan liên hiệp các xí nghiệp (tổng công ty) là quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi của các đơn vị xí nghiệp trực thuộc. Mức phân bổ cho từng đơn vị xí nghiệp trực thuộc do giám đốc liên hiệp các xí nghiệp (tổng công ty) quyết định tuỳ theo yêu cầu và khả năng cụ thể của từng đơn vị xí nghiệp.
1. Dành từ 1% đến 3% quỹ khuyến khích phát triển sản xuất của các đơn vị, xí nghiệp hạch toán kinh tế độc lập để lập quỹ dự trữ tài chính tập trung ở các cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp như liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty, Bộ chủ quản. Mức cụ thể do cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của xí nghiệp quy định.
Xí nghiệp được sử dụng quỹ khuyến khích phát triển sản xuất để bổ sung cho nhu cầu tăng vốn lưu động, vốn tự có về đầu tư xây dựng cơ bản, nộp lên cơ quan quản lý cấp trên để lập quỹ nghiên cứu khoa học kỹ thuật tập trung theo kế hoạch hàng năm của xí nghiệp.
2. Dành 1% quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng của xí nghiệp để lập quỹ Bộ trưởng (hoặc quỹ tổng giám đốc liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty) . Trường hợp cấp trên trực tiếp của xí nghiệp là Liên hiệp các xí nghiệp (tổng công ty) không phải là những đơn vị hạch toán kinh tế tập trung thì 1% đó được chia ra 2 phần: 0,5% để lập quỹ tổng giám đốc Liên hiệp các xí nghiệp (tổng công ty) và 0,5% được chuyển lên Bộ để lập quỹ Bộ trưởng. Trường hợp Liên hiệp các xí nghiệp (tổng công ty) là những đơn vị hạch toán kinh tế tập trung thì phải dùng 1% quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng của mình để lập quỹ Bộ trưởng.
2. Các đơn vị xí nghiệp cơ sở phải đăng ký kế hoạch trích lập 3 quỹ có chia ra từng quý với cơ quan tài chính cùng cấp và ngân hàng nơi xí nghiệp mở tài khoản và được trích hàng quý như quy định ở điểm 1, phần B, mục II của Thông tư này.
3. Khi duyệt quyết toán hàng năm cho đơn vị cơ sở, cơ quan quản lý cấp trên với sự tham gia của cơ quan tài chính cùng cấp duyệt số chính thức về lợi nhuận để lại xí nghiệp trích lập 3 quỹ và số lợi nhuận phải nộp ngân sách Nhà nước như quy định ở phần B, mục II Thông tư này. Nếu xí nghiệp sử dụng quá số lợi nhuận để lại xí nghiệp thì phải trừ vào số trích của năm sau và ngược lại, nếu thiếu được trích thêm.
4. Đối với các đơn vị vừa làm nhiệm vụ sản xuất, vừa làm nhiệm vụ xây dựng cơ bản theo hình thức tự tổ chức thi công và có hạch toán riêng như hoạt động xây dựng cơ bản thuộc ngành cao su, lâm nghiệp, nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, thuỷ lợi, việc phân phối lợi nhuận do tiêu thụ sản phẩm xây lắp được áp dụng theo các quy định trong Thông tư này.
5. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1 tháng 7 năm 1986 và được áp dụng cho việc phân phối lợi nhuận cả năm 1986 của các xí nghiệp trung ương và địa phương.
Những quy định trước đây trái với Thông tư này đều bãi bỏ.
| Hồ Tế (Đã Ký) |