cơ sở dữ liệu pháp lý

Dự thảo án lệ 18 (đợt 3): Án lệ về người Việt Nam trước khi đi định cư ở nước ngoài giao lại đất nông nghiệp cho người Việt Nam ở trong nước sử dụng

 

Án lệ số /2017/AL về người Việt Nam trước khi đi định cư ở nước ngoài giao lại đất nông nghiệp cho người Việt Nam ở trong nước sử dụng

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày… tháng … năm 2017và được công bố theo Quyết định số …/QĐ-CA ngày … tháng … năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 461/2014/DS-GĐT ngày 24-11-2014 của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất liên quan đến tài sản bị cưỡng chế” tại tỉnh Đắk Lắk giữa nguyên đơn làcụA với bị đơn là ông H, bà K; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm Ủy ban nhân dân thành phố X, Ngân hàng Y.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 4 phần “Xét thấy” của quyết định giám đốc thẩm nêu trên.

Khái quát nội dung của án lệ:

- Tình huống án lệ:

Người Việt Nam trước khi đi định cư ở nước ngoài đã giao đất nông nghiệp cho người Việt Nam ở trong nước sử dụng; người Việt Nam ở trong nước đã sử dụng đất đó ổn định, lâu dài và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, đất không còn thuộc quyền sử dụng hợp pháp của người đã giao đất, khi người đó trở về Việt Nam sinh sống thì không có quyền đòi lại đất.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

- Mục 3 phần III, mục 3 phần V Quyết định số 201-HĐCP/QĐ ngày 01-7-1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước; Điều 14 Luật đất đai năm 1987, Điều 26 Luật đất đai năm 1993, khoản 11 Điều 38 Luật đất đai năm 2003 (tương ứng với điểm h khoản 1 Điều 64 Luật đất đai năm 2013), Điều 50 Luật đất đai năm 2003 (tương ứng với Điều 100 Luật đất đai năm 2013).

Từ khóa của án lệ:

“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài”; “Người Việt Nam ở trong nước”; “Giao đất nông nghiệp”, “Thu hồi đất nông nghiệp”; “Đòi lại đất”; “Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là cụ A, do ông M đại diện trình bày:

Năm 1978 vợ chồng cụ A và cụ B cho ông H diện tích đất 5 sào có làm giấy cho trong đó xác định tứ cận phía đông giáp đất ông Lạc, phía tây giáp đất bà Nguyễn Thị Thanh, phía nam giáp đất người Thượng, phía bắc giáp quốc lộ 14. Sau khi cho đất thì vào năm 1982 và 1983 ông H bán diện tích đất này cho ông Nguyễn Đăng Nhật và ông Nguyễn Văn Biểu. Khi ông H bán hết diện tích đất được cho thì cụ A cho ông H diện tích đất kế bên với diện tích là 150m2, khi cho không lập văn bản. Đến năm 2005 cụ A cho ông H căn nhà và diện tích đất được xác định tứ cận là phía đông giáp đất ông Nguyễn Văn Biểu, phía tây và phía nam giáp đất còn lại của gia đình, phía bắc giáp quốc lộ 14.

Năm 2005 cụ A lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngày 09-3-2006 cụ A được Ủy ban nhân dân thành phố X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 516166 thửa số 9 tờ bản đồ 58 diện tích 10.112,4m2, mục đích sử dụng trồng cây hàng năm, thời hạn sử dụng đến năm 2013 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 516165 thửa đất số 9A, tờ bản đồ 58, diện tích 300m2 mục đích sử dụng đất ở đô thị cho cụ A và cụ B. Tháng 11-2006 cụ A có đơn xin điều chỉnh và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho phù hợp với hiện trạng đã xây nhà trên đất, ngày 24-11-2006 Ủy ban nhân dân thành phố X đã ban hành Quyết định số 762/QĐ-UBND thu hồi các Giấy chứng nhận số AD 516165 và AD 516166 cấp đổi thành các Giấy chứng nhận mới số AG 680769 và AG 680768 cho cụ A và cụ B.

Ngày 19-6-2009 Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố X ban hành Quyết định số 1654/QĐ-UBND thu hồi các Giấy chứng nhận mang số AG 680769 và AG 680768 đã cấp cho cụ A và cụ B với lý do giấy chứng nhận đã cấp có sự chồng lấn lên phần diện tích và trùng số thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H. Cụ A đã khiếu nại rồi khởi kiện hành chính đối với Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố X về việc ban hành Quyết định số 1654/QĐ-UBND thu hồi các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 680769 và AG 680768. Hiện nay vụ kiện đang bị tạm đình chỉ giải quyết do cụ A khởi kiện ông H đòi lại đất vì ông H chiếm giữ và giả mạo giấy tờ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông H.

Năm 2005 ông H dùng bản photo giấy cho đất tự sửa chữa toàn bộ vị trí thửa đất, phía nam giáp đất ông Đoàn, phía bắc giáp quốc lộ 14 rồi photo lại dùng làm tài liệu kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đồng thời ông H làm giấy xác nhận mất giấy tờ gốc xin Ủy ban nhân dân phường E, trên cơ sở tài liệu này Ủy ban nhân dân thành phố X đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H 4.925,5m2 (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579302 cho thửa 9A, tờ bản đồ 58 có diện tích 300,5m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579313 cho thửa 09 tờ bản đồ số 58 với diện tích 4.624m2).

Như vậy, việc ông H đã giả mạo giấy cho đất (sửa chữa tứ cận) cố tình gian dối khi kê khai để làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là trái pháp luật, việc Ủy ban nhân dân thành phố X cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H là không đúng thực tế, phần đất đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H vẫn thuộc quyền sử dụng của cụ A, cụ B từ trước 1975 đến nay và cụ A, cụ B đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Do đó cụ A đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột giải quyết buộc ông H và bà K trả lại 4.775,4m2cho cụ A, đồng thời hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông H và bà K (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579302 đã cấp đối với thửa 9A, tờ bản đồ 58 có diện tích 300,5m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579313 thửa số 09 tờ bản đồ số 58 diện tích 4.624m2 do Ủy ban nhân dân thành phố X cấp.

Bị đơn là ông H trình bày:

Năm 1978 cha mẹ của ông là cụ A và cụ B có cho vợ chồng ông căn nhà và lô đất trồng cây ăn trái, tổng diện tích đất là 05 sào, khi cho có làm giấy cho nhà và tứ cận được xác định phía đông giáp đất ông Lạc, phía tây giáp đất bà Nguyễn Thị Thanh, phía nam giáp đất người Thượng, phía Bắc giáp quốc lộ 14. Năm 1982, cụ A có bán cho ông Nguyễn Đăng Nhật 01 sào phần diện tích đất cha mẹ đã cho ông, năm 1985 còn lại 4 sào cụ B bán cho ông Nguyễn Văn Biểu. Sau khi cha mẹ bán đất thì cha mẹ cho vợ chồng ông 5 sào liền kề. Diện tích đất cha mẹ cho vợ chồng ông năm 1978 chưa biết giáp ai nên cụ B để trống sau khi bán xong cha mẹ cho lại 5 sào kề bên nên ông mới đề vào giáp đất ông Biểu với giáp đất nhà và xác nhận của Quốc doanh chiếu bóng thuộc Ty văn hóa tỉnh Đắk Lắk, Hội nông dân tập thể xã E và Ủy ban nhân dân xã E. Sau khi bán đất xong cha mẹ định cư tại Cộng hòa liên bang Đức.

Đến năm 2004 cụ A hồi hương, trước đó ông có gửi cho bà Nguyễn Thị Thanh tất cả giấy tờ nhà và đất, đến năm 2005 vợ chồng ông có lên hỏi đòi lại giấy tờ nhà đất thì bà Thanh trả lại toàn bộ giấy tờ photo, còn giấy cho nhà và đất giấy gốc có con dấu của các cơ quan hiện tại cụ A đang giữ, ông mang toàn bộ giấy tờ photo kèm theo hai bản quyết định trồng cà phê 1980 và 1990 của Ủy ban nhân dân thị xã X lên Ủy ban nhân dân phường E để hỏi có làm được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thì Ủy ban nhân dân phường E hướng dẫn ông cần phải được mẹ và các anh em ở Việt Nam ký và xác nhận năm 1978 có cho vợ chồng ông căn nhà 150m2 và 3,5 sào đất trồng cây ăn trái đúng như trong giấy tờ gốc.

Sau khi về nói với cụ A (cụ B đã chết) thì cụ A có làm đơn xác nhận là năm 1978 có cho vợ chồng ông căn nhà và mấy sào đất trồng cây ăn trái. Cụ A ký, anh Nguyễn Văn Thiện (nay đã chết), em Nguyễn Thị Thanh đều ký xác nhận năm 2005, nên ông mang đến Ủy ban nhân dân phường E xem xét và được Ủy ban nhân dân phường chấp nhận và làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông.

Năm 2006 cụ A có làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Ủy ban nhân dân thành phố X cấp chồng lên diện tích đất của vợ chồng ông và kiện vợ chồng ông là lừa đảo, chiếm đoạt đất của cụ A.

Theo đơn khởi kiện của cụ A buộc vợ chồng ông trả lại diện tích đất 4.775,4m2 đất thuộc các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579313 diện tích 4.624m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579302 diện tích 300,5m2 đã trừ đi 150m2 của vợ chồng ông, vợ chồng ông không chấp nhận yêu cầu của cụ A, vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông là hợp pháp và khi cấp thì không ai khiếu nại gì, do đó đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho vợ chồng ông.

Diện tích hai lô đất trên vợ chồng ông đã thế chấp vay vốn tại Ngân hàng Y với số tiền 3.000.000.000 đồng, Ngân hàng đã khởi kiện và hiện thi hành án đã kê biên lô đất 300,5m2.

Ngoài những ý kiến trên thì ông không có ý kiến nào khác.

Bị đơn là bà K nhất trí với lời trình bày của chồng là ông H, không có ý kiến trình bày gì thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân thành phố X, do ông N là đại diện theo ủy quyền trình bày: việc Ủy ban nhân dân thành phố X cấp 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H, bà K là đúng trình tự thủ tục. Nay giữa cụ A và ông H, bà K có tranh chấp quyền sử dụng đất thì đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng Y, do ông P là đại diện theo ủy quyền trình bày: Ngân hàng Y nhận thế chấp tài sản của ông H, bà K khi cho ông H và bà K vay vốn là ngay tình, đăng ký thế chấp đúng theo quy định của pháp luật. Nay các bên có tranh chấp liên quan đến tài sản đã thế chấp vay vốn của Ngân hàng thì đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của Ngân hàng.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 124/2013/DS-ST ngày 06-9-2013, Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột quyết định: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cụ A về việc yêu cầu ông H và bà K trả lại diện tích đất 4.775,4m2 cho cụ A và hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông H và bà K số: AD 579302 thửa 9A tờ bản đồ 58 có diện tích 300,5m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: AD 579313 thửa số 09 tờ bản đồ số 58 diện tích 4.624m2 do Ủy ban nhân dân thành phố X cấp.

Tòa án còn quyết định về án phí và nghĩa vụ chậm thi hành án.

Ngày 09-9-2013, cụ A kháng cáo.

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk kháng nghị phúc thẩm bản án dân sự sơ thẩm nêu trên.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2014/DSPT ngày 14-01-2014, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã sửa bản án dân sự sơ thẩm như sau:

Công nhận quyền sử dụng đất 4.775,4m2 nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579313 diện tích 4.624,9m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579302 diện tích 300,5m2 do Ủy ban nhân dân thành phố X đã cấp cho vợ chồng ông H và bà K ngày 26-12-2005 (sau khi khấu trừ 150m2 cụ A đã cho ông H năm 2005) thuộc quyền quản lý, sử dụng của cụ A – Khấu trừ diện tích đất thu hồi 272,8m2 theo Quyết định thu hồi số 4223/QĐ-UBND ngày 24-12-2012 của Ủy ban nhân dân thành phố X và diện tích cụ A tự nguyện cho tại phiên tòa phúc thẩm là 33,74m2. Như vậy, còn lại là 4.468,86m2.

Hủy 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579313 diện tích 4.624,9m2 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 579302 diện tích 300,5m2 do Ủy ban nhân dân thành phố X đã cấp cho vợ chồng ông H và bà K ngày 26-12-2005.

Buộc ông H và bà K phải có trách nhiệm hoàn trả lại cho cụ A tổng diện tích 4.468,86m2 tọa lạc tại tổ dân phố G, phường E, thành phố X, tỉnh Đắk Lắk có tứ cận: phía bắc giáp quốc lộ 14 (đường Lê Duẩn), phía nam giáp đất cụ A, phía đông giáp đất giao cho ông H, bà K và đất ông Dũng, phía tây giáp đất cụ A.

Ghi nhận sự tự nguyện của cụ A về việc cho ông H và bà K diện tích 33,74m2 và diện tích 150m2 cho năm 2005. Tổng cộng là 183,74m2 có tứ cận: phía bắc giáp quốc lộ 14 kích thước 6,03m; phía nam giáp đất cụ A kích thước 6,03m; phía đông giáp đất ông Dũng kích thước 30,47m; phía tây giáp phần đất trả cho cụ A kích thước 30,47m.

Ông H, bà K, Ngân hàng Y và ông S có đơn đề nghị giám đốc thẩm bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị số 343/2014/DS-KN ngày 16-9-2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 124/2013/DSST ngày 06-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ý kiến của Kiểm sát viên và sau khi thảo luận,

Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao nhận định:

Vợ chồng cụ B (chết năm 1998), cụ A sử dụng 29.418,27m2 đất tọa lạc tại phường E, thành phố X , tỉnh Đắk Lắk từ trước năm 1975.

Năm 1983 vợ chồng cụ A, cụ B đã xuất cảnh sang định cư tại Cộng hòa liên bang Đức, toàn bộ diện tích đất nêu trên giao lại cho các con ở trong nước sử dụng, trong đó giao cho vợ chồng ông H, bà K một phần diện tích và năm 2005 vợ chồng ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng với diện tích 4.924m2 (gồm 300,5m2 đất ở và 4.624,9m2 đất nông nghiệp).

Năm 2004, cụ A hồi hương và được các con giao lại một số diện tích đất để sử dụng; năm 2006 cụ A được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó có cả diện tích đất mà vợ chồng ông H đang sử dụng. Sau đó, Ủy ban nhân dân thành phố X kiểm tra phát hiện phần diện tích đất cấp quyền sử dụng đất cho cụ A đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H năm 2005 nên đã ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho cụ A. Khi Tòa án giải quyết tranh chấp đất, Ủy ban nhân dân thành phố X vẫn xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H là đúng.

Như vậy, tuy diện tích đất tranh chấp nêu trên có nguồn gốc là của cụ A, cụ B nhưng hai cụ đi nước ngoài nên đã giao cho vợ chồng ông H, bà K sử dụng từ năm 1983 và ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2005. Đối với diện tích đất nông nghiệp 4.624,9m2 khi cụ A, cụ B đi định cư tại Cộng hòa liên bang Đức, nếu không giao cho ông H sử dụng thì cũng bị Nhà nước thu hồi, vợ chồng ông H đã có quá trình sử dụng ổn định, lâu dài và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên đất không còn thuộc quyền sử dụng hợp pháp của hai cụ.

Đối với 300,5m2 đất ở thì cụ A đã đồng ý cho ông H 150m2, phần còn lại là di sản thừa kế của cụ B nên cụ A không có quyền đòi lại toàn bộ phần diện tích đất này.

Mặt khác, năm 2009 ông H đã thế chấp quyền sử dụng đất này cho Ngân hàng Y để vay tiền. Do ông H không trả được nợ nên Ngân hàng đã khởi kiện. Tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 47/2011/QĐDSST-KDTM ngày 17-6-2011, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk công nhận sự thỏa thuận của ông H và Ngân hàng trong đó có nội dung nếu đến hết ngày 07-7-2011 ông H không trả nợ 3.571.466.666 đồng thì Ngân hàng có quyền cưỡng chế phát mại tài sản thế chấp. Do ông H không thực hiện được thỏa thuận nên Ngân hàng đã tiến hành tổ chức bán đấu giá tài sản là diện tích đất tranh chấp (đấu giá thành ngày 30-10-2012 và ngày 06-6-2013), ông S là người mua trúng đấu giá tài sản. Như vậy, diện tích đất tranh chấp đã được giải quyết bằng quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án năm 2011, năm 2012 cụ A mới tranh chấp và tài sản tranh chấp đã được đem bán đấu giá thành, nhưng khi xét xử phúc thẩm (ngày 14-01-2014) Tòa án cấp phúc thẩm lại buộc ông H, bà K trả toàn bộ đất cho cụ A (trừ phần đất đã làm nhà 180m2) là không đúng, không thể thi hành được bản án và không đảm bảo quyền lợi của ông H, Ngân hàng và ông S.

Do đó, xét thấy cần phải hủy cả bản án dân sự sơ thẩm để đưa ông S tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới giải quyết toàn diện vụ án.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 1 Điều 296, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH:

Chấp nhận Kháng nghị số 343/2014/DS-KN ngày 16-9-2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2014/DSPT ngày 14-01-2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk và hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 124/2013/DSST ngày 06-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất liên quan đến tài sản bị cưỡng chế” giữa nguyên đơn là cụ A với bị đơn là vợ chồng ông H, bà K; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân thành phố X và Ngân hàng Y.

Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm lại lại theo đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“Như vậy, tuy diện tích đất tranh chấp nêu trên có nguồn gốc là của cụ A, cụ B nhưng hai cụ đi nước ngoài nên đã giao cho vợ chồng ông H, bà K sử dụng từ năm 1983 và ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2005. Đối với diện tích đất nông nghiệp 4.624,9m2 khi cụ A, cụ B đi định cư tại Cộng hòa liên bang Đức, nếu không giao cho ông H sử dụng thì cũng bị Nhà nước thu hồi, vợ chồng ông H đã có quá trình sử dụng ổn định, lâu dài và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên đất không còn thuộc quyền sử dụng hợp pháp của hai cụ.”

(nguồn Cổng thông tin điện tử TANDTC (www.toaan.gov.vn))

 

 

 

Quy định mới về kiểm tra, đánh giá thử nghiệm thuốc trên lâm sàng

Bộ Y tế đang hoàn thiện Dự thảo Thông tư mới về thử nghiệm thuốc trên lâm sàng, thay thế Thông tư số 29/2018/TT-BYT. Dự thảo này tập trung vào việc kiểm tra, đánh giá và giám sát chất lượng nghiên cứu lâm sàng, nhằm đảm bảo tuân thủ Thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng (GCP) và nâng cao tính minh bạch trong thử nghiệm thuốc.

So với quy định trước đây, Dự thảo bổ sung các cơ chế kiểm tra nghiêm ngặt hơn, tăng tần suất đánh giá GCP và quy định rõ về các mức độ vi phạm cũng như chế tài xử lý. Các cơ sở nghiên cứu, doanh nghiệp dược và bệnh viện cần cập nhật ngay những thay đổi này để đảm bảo tuân thủ đúng quy định.

Những thay đổi quan trọng trong kiểm tra, đánh giá thử nghiệm thuốc

1. Ba cấp độ kiểm tra theo Dự thảo mới

Dự thảo quy định các cơ sở thử nghiệm thuốc trên lâm sàng sẽ phải chịu kiểm tra định kỳ và có thể bị thanh tra đột xuất​. Các hình thức kiểm tra bao gồm:

Thứ nhất, đánh giá lần đầu

Kiểm tra được thực hiện khi cơ sở thử nghiệm đăng ký lần đầu để xin cấp phép thực hiện nghiên cứu thuốc trên lâm sàng. Bộ Y tế sẽ kiểm tra cơ sở vật chất, đội ngũ nhân sự, hồ sơ GCP, đảm bảo đơn vị đáp ứng tiêu chuẩn trước khi bắt đầu thử nghiệm​.

Thứ hai, đánh giá định kỳ

Kiểm tra được thực hiện 3 năm/lần, nhằm kiểm tra mức độ duy trì tiêu chuẩn GCP của cơ sở thử nghiệm. Quy định này giúp đảm bảo rằng các đơn vị không chỉ đáp ứng tiêu chuẩn khi xin cấp phép mà còn duy trì chất lượng trong suốt quá trình hoạt động.

Thứ ba, đánh giá đột xuất

Theo Dự thảo, Bộ Y tế có quyền kiểm tra bất cứ lúc nào nếu phát hiện dấu hiệu vi phạm hoặc có yêu cầu từ cơ quan quản lý nhà nước. Các cơ sở thử nghiệm có thể bị thanh tra nếu:

  • Có bằng chứng về vi phạm an toàn nghiên cứu hoặc tác động tiêu cực đến người tham gia thử nghiệm.
  • Bị phát hiện không tuân thủ tiêu chuẩn GCP trong quá trình hoạt động.
  • Có yêu cầu thanh tra từ cơ quan chức năng trong nước hoặc quốc tế.

Với những thay đổi này, các doanh nghiệp dược và tổ chức nghiên cứu cần duy trì hồ sơ đầy đủ, tuân thủ tiêu chuẩn GCP liên tục, tránh bị thanh tra đột xuất và đối mặt với các chế tài xử phạt.

2. Tiêu chí đánh giá mức độ tuân thủ GCP

Dự thảo quy định rõ các tiêu chí đánh giá mức độ tuân thủ GCP, giúp phân loại tình trạng của từng cơ sở thử nghiệm​. Các mức đánh giá bao gồm:

Mức độ 1 (Đạt yêu cầu GCP): Cơ sở thử nghiệm tuân thủ đầy đủ các yêu cầu về GCP, không có vi phạm nào cần khắc phục.

Mức độ 2 (Cần khắc phục lỗi nhỏ): Có một số sai sót nhỏ nhưng không ảnh hưởng đến chất lượng nghiên cứu, cần khắc phục trong thời gian nhất định​.

Mức độ 3 (Vi phạm nghiêm trọng): Cơ sở thử nghiệm có hành vi vi phạm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tính an toàn hoặc kết quả nghiên cứu. Đơn vị này sẽ có tối đa 45 ngày để khắc phục sai phạm, nếu không đáp ứng, có thể bị xử lý theo quy định​.

Ở Mức 3, cơ sở thử nghiệm có thể đối mặt với các hình thức xử lý nghiêm khắc như tạm đình chỉ nghiên cứu, rút giấy phép GCP hoặc chịu các hình thức xử phạt hành chính theo Luật Dược​.

Với quy định mới này, các cơ sở nghiên cứu cần kiểm tra lại quy trình nội bộ, rà soát các sai sót có thể xảy ra để tránh bị xếp vào mức độ vi phạm nghiêm trọng.

3. Quy trình kiểm tra và xử lý vi phạm

Dự thảo mới cũng quy định rõ quy trình kiểm tra và xử lý vi phạm trong thử nghiệm lâm sàng, bao gồm các bước​:

Bước 1: Bộ Y tế ra quyết định kiểm tra hoặc thanh tra đột xuất nếu phát hiện dấu hiệu vi phạm hoặc theo kế hoạch kiểm tra định kỳ.

Bước 2: Đoàn kiểm tra thực hiện đánh giá tại cơ sở thử nghiệm, dựa trên các tiêu chuẩn GCP và các tài liệu nghiên cứu lâm sàng.

Bước 3: Nếu phát hiện vi phạm ở mức độ nhẹ, cơ sở thử nghiệm sẽ được yêu cầu khắc phục trong thời gian quy định. Nếu vi phạm nghiêm trọng, đoàn kiểm tra có thể tạm đình chỉ hoạt động thử nghiệm ngay lập tức để đảm bảo an toàn nghiên cứu​.

Bước 4: Bộ Y tế sẽ theo dõi quá trình khắc phục sai phạm và ra quyết định cuối cùng về tình trạng hoạt động của cơ sở thử nghiệm.

Với quy trình kiểm tra mới này, các doanh nghiệp cần duy trì tiêu chuẩn GCP liên tục, chuẩn bị sẵn sàng hồ sơ nghiên cứu và tuân thủ các yêu cầu pháp lý, tránh tình trạng bị đình chỉ nghiên cứu do vi phạm.

Dự thảo Thông tư mới về thử nghiệm thuốc trên lâm sàng tăng cường kiểm tra, đánh giá nghiêm ngặt hơn, giúp nâng cao chất lượng nghiên cứu và đảm bảo quyền lợi cho người tham gia.

Với các quy định mới này, các cơ sở thử nghiệm cần chuẩn bị đầy đủ hồ sơ GCP, tuân thủ quy định trong suốt quá trình nghiên cứu, tránh rủi ro vi phạm có thể dẫn đến đình chỉ hoạt động. Ngoài ra, doanh nghiệp dược cũng nên cập nhật liên tục các yêu cầu mới, xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ để đảm bảo tuân thủ.

Những thay đổi trong quy trình thử thuốc trên lâm sàng theo Dự thảo mới

Bộ Y tế đang hoàn thiện Dự thảo Thông tư mới về thử thuốc trên lâm sàng, dự kiến thay thế Thông tư số 29/2018/TT-BYT. Quy định mới này nhằm siết chặt kiểm soát thử nghiệm thuốc, đảm bảo chất lượng nghiên cứu và quyền lợi của người tham gia.

Theo Dự thảo, các doanh nghiệp dược, tổ chức nghiên cứu, bệnh viện và cơ quan quản lý cần nắm rõ những thay đổi sau để đảm bảo tuân thủ quy định.

Những thay đổi chính trong quy trình thử thuốc trên lâm sàng

1. Hồ sơ thử nghiệm thuốc phải đáp ứng tiêu chuẩn GCP

Một trong những điểm thay đổi quan trọng nhất trong Dự thảo mới là yêu cầu bắt buộc về Thực hành tốt thử thuốc trên lâm sàng (GCP)​. Theo đó, tất cả hồ sơ thử nghiệm thuốc phải tuân thủ tiêu chuẩn GCP để đảm bảo tính minh bạch, an toàn và chất lượng dữ liệu nghiên cứu.

Các yêu cầu cụ thể bao gồm: cơ sở thử nghiệm phải có chứng nhận GCP hợp lệ​, hồ sơ sản phẩm nghiên cứu viên (IB) phải đầy đủ và chính xác​, phiếu thu thập dữ liệu nghiên cứu (CRF) phải được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế​.

2. Rút ngắn thời gian phê duyệt hồ sơ thử nghiệm thuốc

Dự thảo mới quy định thời gian xử lý hồ sơ thử nghiệm thuốc được rút ngắn và cụ thể hơn​. Theo đó, quy trình phê duyệt sẽ bao gồm:

  • 05 ngày làm việc để kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ.
  • 25 ngày làm việc để Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học thẩm định đề cương nghiên cứu.
  • 05 ngày làm việc để Bộ Y tế ra quyết định phê duyệt hoặc từ chối hồ sơ​.

3. Tăng cường thanh tra, kiểm tra thử nghiệm thuốc

Dự thảo cũng đưa ra các quy định mới về kiểm tra, giám sát cơ sở thử nghiệm thuốc, nhằm đảm bảo tính tuân thủ của các đơn vị thực hiện nghiên cứu lâm sàng​.

Theo đó, có 3 cấp độ đánh giá GCP:

  • Đánh giá lần đầu: Được thực hiện khi cơ sở xin cấp phép thử nghiệm thuốc.
  • Đánh giá định kỳ: Diễn ra 3 năm/lần nhằm đảm bảo cơ sở thử nghiệm tiếp tục tuân thủ các tiêu chuẩn GCP.
  • Đánh giá đột xuất: Được thực hiện bất cứ lúc nào nếu có dấu hiệu vi phạm hoặc theo yêu cầu của Bộ Y tế.

Ngoài ra, Dự thảo cũng quy định các mức độ vi phạm GCP và hậu quả đi kèm​. Nếu cơ sở thử nghiệm vi phạm nghiêm trọng, có thể bị đình chỉ nghiên cứu hoặc rút giấy phép.

Dự thảo Thông tư mới về thử thuốc trên lâm sàng mang lại những thay đổi quan trọng, giúp siết chặt quy trình thử nghiệm, nâng cao tính an toàn và chất lượng nghiên cứu.

 Các doanh nghiệp dược và tổ chức nghiên cứu cần nhanh chóng cập nhật các yêu cầu mới, đặc biệt là đáp ứng tiêu chuẩn GCP, chuẩn bị hồ sơ thử nghiệm hoàn chỉnh ngay từ đầu, và duy trì tuân thủ trong suốt quá trình nghiên cứu.

Dự thảo án lệ số 18/2024 về việc xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường khi thu hồi đất

DỰ THẢO ÁN LỆ SỐ 18/2024[1]

ÁN LỆ SỐ .../2024/AL

Về việc xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường khi thu hồi đất

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày tháng năm 2024 và được công bố theo Quyết định số /QĐ-CA ngày tháng năm 2024 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Bản án hành chính phúc thẩm số 427/2019/HC-PT ngày 09/7/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về việc “khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất” giữa Người khởi kiện là ông Trần Văn H; Người bị kiện là UBND tỉnh B và UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 6 và 7 phần “Nhận định của Tòa án”

Khái quát nội dung án lệ:

- Tình huống án lệ:

Cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất, nhưng chậm công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất. Tại thời điểm công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất thì giá đất đã có sự thay đổi, nên người bị thu hồi đất không đồng ý với giá đất bồi thường tại thời điểm ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường.

- Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường cho người bị thu hồi đất là giá đất tại thời điểm thu hồi đất.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

- Điều 11, khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ

- Khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường

Từ khóa của án lệ:

“Quyết định thu hồi đất”, “Xác định giá đất để tính bồi thường cho người bị thu hồi đất”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

*Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và người khởi kiện ông Trần Văn H trình bày:

Gia đình ông Trần Văn H bị thu hồi 2.899 m2 đất trong công trình BOT ĐT- 747B đoạn đi xã Khánh Bình (nay là phường K) huyện T (nay là thị xã T). Đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được triển khai thực hiện từ năm 2010.

Tại buổi làm việc đầu tiên ngày 18/12/2014 ông Trần Văn H đã không đồng ý với yêu cầu nhận tiền bồi thường, bàn giao cho ông Trần Văn H các văn bản như sau:

- Quyết định số: 9858/QĐ-UBND, ngày 03/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B từ đoạn nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh.

- Quyết đinh số: 10492/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012 về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P, ngụ tại khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Ông Trần Văn H không đồng ý nhận tiền bồi thường, do Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T thực hiện việc giải tỏa, bồi thường đối với 2.899,2m2 đất của ông Trần Văn H trái các quy định của pháp luật về giải tỏa, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Ngày 24/12/2014, ông H có đơn khiếu nại việc áp giá bồi thường, hỗ trợ đối với 2.899,2 m2 đất của ông H đến UBND thị xã T.

Ngày 10/4/2015, Trung tâm phát triển đất thị xã T tiến hành đối thoại giải quyết các nội dung khiếu nại của ông Trần Văn H; ngày 29/5/2015 UBND thị xã T ban hành Công văn số: 3131/UBND-TD trả lời đơn của ông Trần Văn H với cùng kết luận như kết quả đối thoại là Trung tâm phát triển quỹ đất đã bồi thường, hỗ trợ với diện tích 2.899,2m2 đất của ông H bị thu hồi là đúng theo quy định, cụ thể:

Đối với ý kiến tại sao đến nay, hơn 2 năm kiểm kê, mới đưa quyết định bồi thường và bảng áp giá cho ông Trần Văn H, trong khi Quyết định có ghi rõ ông Trần Văn H có quyền khiếu nại trong vòng 90 ngày: Việc này nguyên nhân do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bố cho Dự án không đủ để chi trả bồi thường cho dân nên không mời ông Trần Văn H đến để giao quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ. Về thời hiệu khiếu nại theo khoản 3 Điều 2 Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T có quy định ông Trần Văn H và bà Hà Thị P có quyền khiếu nại quyết định này trong thời hạn 90 (chín mươi) ngày kể từ ngày nhận quyết định. Ông Trần Văn H đã nhận quyết định bồi thường vào ngày 18/12/2014. Theo đó, thời hiệu khiếu nại Quyết định số 14092/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 được tính từ ngày ông Trần Văn H ký nhận quyết định số 10492/QĐ-UBND (ngày 18/12/2014).

Về trình tự, thủ tục thu hồi và bồi thường, hỗ trợ Trung tâm Phát triển quỹ đất đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 46 và Điều 47 Quyết định số: 87/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B. Trong quá trình thực hiện Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T đã phối hợp với UBND phường K tổ chức họp công khai Phương án bồi thường, niêm yết công khai phương án bồi thường.

Ông Trần Văn H đề nghị thẩm định lại giá đất, thẩm định lại Phương án bồi thường, hỗ trợ số: 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012, nhưng đến ngày 18/12/2014 mới giao cho ông là không có căn cứ để xem xét giải quyết vì phương án bồi thường, hỗ trợ được phê duyệt tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện (nay là thị xã) được niêm yết công khai đúng trình tự, thủ tục; đơn giá bồi thường, hỗ trợ trong phương án bồi thường được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên - Môi trường “.. giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm...

Đối với ý kiến nếu không thể điều chỉnh giá đất theo giá thị trường, đề nghị chủ đầu tư và chính quyền địa phương có phương án đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và có giá trị tương đương: Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định “Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất”. Do địa phương không có quỹ đất để bồi thường nên các hộ dân có đất bị thu hồi để thực hiện công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo đất tại thời điểm thu hồi đất. Ông Trần Văn H đề nghị đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và có giá trị tương đương là không thực hiện được.

Ông Trần Văn H không đồng ý với kết quả giải quyết của UBND thị xã T tại Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 trả lời đơn khiếu nại và đề nghị của ông Trần Văn H như nêu trên bằng quyết định giải quyết khiếu nại. Ngày 06/9/2016, ông Trần Văn H khiếu nại Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T nêu trên, yêu cầu: Hủy bỏ công văn số 3131/UBND- TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T về việc trả đơn của ông Trần Văn H; Yêu cầu UBND thị xã T giao Quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H theo đúng trình tự quy định pháp luật; hủy Quyết định số 10492/QĐ- UBND, ngày 16/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và xác định lại giá đất bồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H (giá đất bồi thường tại thời điểm thu hồi đất) hoặc hoán đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương.

Ngày 30/12/2015, Chủ tịch UBND thị xã T ban hành quyết định 6465/QĐ- UBND bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H, giữ nguyên Công văn số 3131/UBND-TD, ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T và Quyết định số 10492/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, với nội dung:

Về trình tự, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ: UBND thị xã T đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 46 và Điều 47 Quyết định số 87/2009/QĐ- UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B. Trong quá trình thực hiện ban ngành thị xã T đã phối hợp với UBND K tổ chức hợp dân công khai phương án bồi thường, niêm yết công khai phương án bồi thường đúng theo quy định.

Về đơn giá bồi thường, hỗ trợ: Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (Đợt 1: Đoạn từ cầu Khánh Vân đến khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã K, huyện T, tỉnh Bình Dương). Trong đó, quy định đơn giá bồi thường, hỗ trợ về đất áp dụng theo Quyết định số 66/2011/QĐ-UBND ngày 20/12/2011 ban hành quy định bản giá các loại đất năm 2012 và Quyết định số 67/2011/QĐ-UBND ngày 20/11/2011 của UBND tỉnh Bình Dương ban hành hệ số điều chỉnh giá đất (K) năm 2012 trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Những đoạn nắn tuyến có phạm vi giải tỏa ngoài 19m (tính từ tim đường), đối với đất nông nghiệp được hỗ trợ bằng 70% giá đất ở theo Công văn số 492/UBND-KTN. Theo đó, đơn giá bồi thường đất trồng cây lâu năm cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P là: 168.000 đồng/m2, hỗ trợ đất nông nghiệp thửa đất số 68 bằng 70% đơn giá đất ở với diện tích 521,5m2, hỗ trợ đất nông nghiệp bằng 50% đơn giá đất ở với diện tích: 875,5m2, hỗ trợ nắn tuyến bằng 70% đơn giá đất ở với diện tích 103m2, tổng phân tích hỗ trợ bằng 05 lần hạn mức giao đất ở (5 lần x 300 m2 = 1500 m2) đúng theo phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt tại Quyết định số: 9858/QĐ-UBND.

Đối với nội dung ông Trần Văn H yêu cầu trao đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương: do là dự án nâng cấp, mở rộng đường (ĐT 747B) nên diện tích các hộ dân bị ảnh hưởng nhỏ, phần diện tích còn lại đảm bảo xây dựng nhà ở, tái thiết cuộc sống và số lượng các hộ dân giải tỏa trắng hết đất là rất ít. Do đó, công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đển điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất thời điểm quyết định thu hồi đất là đúng theo quy định tại khoản 2, Điều 14 Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ.

Không đồng ý với việc UBND thị xã T giải quyết khiếu nại trên, ngày 07/02/2017 ông Trần Văn H khiếu nại Quyết định số 6546/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 của Chủ tịch UBND thị xã T đến Chủ tịch UBND tỉnh B.

Ngày 11/10/2017, Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2731/QĐ- UBND ngày 11/10/2017 bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H với nội dung:

Việc ông Trần Văn H yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, là không có cơ sở xem xét, giải quyết vì: Dự án Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được UBND tỉnh phê duyệt Dự án tổng thể tại Quyết định số 2998/QĐ-UBND ngày 13/10/2011 trên cơ sở Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ, không quy định phải bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, chỉ quy định gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, để đảm bảo tính công khai, minh bạch và thông tin đến cho người dân, cơ quan chức năng của UBND huyện T cũng đã 02 lần mời ông Trần Văn H, bà Hà Thị P đều không đến và UBND K đã lập Biên bản, niêm yết công khai danh sách các hộ bị thu hồi đất, kèm theo quyết định thu hồi đất tại trụ sở UBND xã K.

Về nội dung ông Trần Văn H yêu cầu bồi thường 2028,2 m2 đất theo giá thị trường tại thời điểm UBND thị xã T bàn giao quyết định thu hồi đất hoặc hoán đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và vị trí tương đương là không có cơ sở xem xét, giải quyết vì: UBND huyện T đã áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đúng theo phương án bồi thường, hỗ trợ mà UBND huyện T phê duyệt tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 và trong phương án trên cũng không quy định về việc hoán đổi đất, hơn nữa địa phương cũng không có quỹ đất để hoán đổi.

Việc UBND thị xã T thực hiện các thủ tục giải tỏa, bồi thường đối với quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H và UBND tỉnh B, UBND thị xã T giải quyết khiếu nại của ông Trần Văn H là trái pháp luật, cụ thể:

Về trình tự thủ tục giải tỏa, bồi thường:

Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên thực hiện không đúng theo các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục bồi thường, cụ thể:

Căn cứ các Điều 30, 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; Điều 46, 47 Quyết định số 87/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B về chính sách, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bình Dương quy định về việc lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và quyết định thu hồi đất, phê duyệt, thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì đều quy định trước khi phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được gửi đến Cơ quan tài nguyên và Môi trường thẩm định, thì phải được tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức công bố, niêm yết công khai để người bị thu hồi đất và những người có liên quan tham gia ý kiến để hoàn chỉnh phương án. Sau khi Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được phương án tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án bồi thường tại trụ sở UBND cấp xã và địa điểm sinh hoạt khu dân cư nơi có đất bị thu hồi; gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người có đất bị thu hồi, trong đó nêu rõ về mức bồi thường, hỗ trợ, về bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và thời gian bàn giao đất đã bị thu hồi cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.

Tuy nhiên, từ khi dự án triển khai năm 2011 đến ngày 18/12/2014 ông Trần Văn H mới được mời để yêu cầu nhận tiền bồi thường là hơn hai năm, ngoài ra ông Trần Văn H không được Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên, UBND K (nay phường K) hay bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào thông báo ông Trần Văn H đến để công bố dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt, cũng như nhận các quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, để ông Trần Văn H biết được quyền sử dụng đất của mình được giải tỏa, bồi thường như thế nào để bảo vệ quyền lợi của mình, thực hiện chủ trương chung của địa phương, trong khi theo các quy định của pháp luật nêu trên đều quy định ông Trần Văn H được thực hiện quyền của người có đất bị thu hồi là tham gia ý kiến đối với phương án bồi thường hỗ trợ và tái định cư, được phổ biến phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt, được nhận quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày phương án bồi thường được phê duyệt.

Quyết định 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 của Chủ tịch UBND thị xã T; Quyết định 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết khiếu nại lại trả lời ông Trần Văn H là đã mời ông Trần Văn H đến UBND xã K để công bố và bàn giao Quyết định thu hồi đất theo giấy mời số 112/GM-TN&MT tuy nhiên ông Trần Văn H không đến nên lập biên bản niêm yết. Việc Chủ tịch UBND thị xã T, Chủ tịch UBND tỉnh B đã trả lời như trên là hoàn toàn dối trá, ông Trần Văn H vô cùng bức xúc vì tại Công văn 3131/UBND- TD ngày 29/5/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T và qua các lần làm việc đối thoại trước đó ngày 10/4/2015 ghi nhận rất rõ ràng lý do quyết định bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H được phê duyệt tháng 10/2012 nhưng đến ngày 18/12/2014 mới tổ chức mời ông Trần Văn H nhận quyết định và nhận tiền bồi thường là do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bổ cho dự án không đủ để chi trả bồi thường cho dân nên không mời ông Trần Văn H đến để giao quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ.

Phương án bồi thường, giải tỏa và hỗ trợ tái định cư trái pháp luật, cụ thể: Tại Mục 5 quy định các chính sách hỗ trợ đã quy định hạn chế phạm vi được hỗ trợ của người có đất bị thu hồi là chỉ trong phạm vi giải tỏa từ 10m đến 19m thì mới được hỗ trợ, trong khi theo các quy định tại Điều 21 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ; Điều 34 Quyết định số 87/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B quy định về hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư đất vườn, ao không được công nhận là đất ở, thì hoàn toàn không có quy định nào cho phép UBND huyện T quy định hạn chế, giới hạn phạm vi giải tỏa được hỗ trợ mà trái lại theo các quy định trên thì ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp còn được hỗ trợ đối với toàn bộ diện tích nhưng không quá 05 lần hạn mức giao đất ở tại thời điểm thu hồi.

Quyết định số 8483/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND huyện T về việc thu hồi đất; Quyết định số 10492/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H với tổng số tiền 1.518.515.550 đồng trái pháp luật:

Các quyết định này được ban hành trên những căn cứ trái luật, hồ sơ khống, kèm theo Quyết định nêu trên là biên bản kiểm kê đất và tài sản trên đất lập ngày 28/12/2011 nhưng ông Trần Văn H hoàn toàn không nhận được biên bản kiểm kê tài sản có bảng vẽ hiện trạng vị trí đất của ông Trần Văn H bị giải tỏa, không xác định ranh móc phần đất giải toả như vậy làm sao xác định được diện tích đất giải tỏa là bao nhiêu để thu hồi đất, tính giá bồi thường. Đồng thời bản áp giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 61/TTPTQĐ-KT, lập ngày 13/8/2012 còn được thực hiện trước khi UBND huyện T ra quyết định thu hồi đất của ông Trần Văn H vào ngày 23/8/2012.

Như vậy, qua quá trình thực hiện giải toàn bộ thường quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H của Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T đã phân tích như trên, có thể thấy rằng trình tự, thủ tục bồi thường giải tỏa, bổi thường quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H là hoàn toàn trái pháp luật.

Giá bồi thường:

Vấn đề sau hơn hai năm (ngày 18/12/2014), ông Trần Văn H mới nhận được Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, bản áp giá bồi thường, trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T, UBND thị xã T đều trả lời ông Trần Văn H thời hiệu khiếu nại được tính từ ngày ông Trần Văn H nhận quyết định là ngày 18/12/2014, nên rõ ràng Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T ban hành và Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T có hiệu lực kể từ ngày 18/12/2014 và vì đây là quyết định hành chính áp dụng đối với ông Trần Văn H nên đương nhiên sẽ phát sinh hiệu lực khi ông Trần Văn H nhận được quyết định ngày 18/12/2014 và quyết định này hoàn toàn không có giá trị pháp lý khi UBND huyện T ban hành và trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên lưu trữ tại cơ quan mà không giao cho ông Trần Văn H.

Như vậy, căn cứ khoản 1, Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên-Môi trường “giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng của lại đât bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố ngày 01 tháng 01 hàng năm” thì giá đất để tính bồi thường cho ông Trần Văn H phải là giá đất năm 2015 nhưng quyết định số 10492/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012 của UBND huyện T lại áp giá theo giá đất tại thời điểm năm 2012. Hơn nữa, căn cứ khoản 2, Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định thì giá đất tính bồi thường là giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất và hiện nay ông Trần Văn H vẫn chưa được Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên, UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất. Vì vậy ông Trần Văn H đề nghị bồi thường giá đất tại thời điểm bồi thường (thời điểm thu hồi đất) là có căn cứ, đúng theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 11 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ; khoản 1, Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 quy định về giá đất để tính bồi thường và xác định giá đất trong một số trường hợp cụ thể thì giá đất tại thời điểm thu hồi đất chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể cho phù hợp hoặc giao cho cơ quan chức năng xác định lại giá đất cụ thể để quyết định giá đất tính bồi thường cho phù hợp và không bị giới hạn bởi quy định về khung giá các loại đất.

Như vậy, Dự án Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B được phê duyệt từ năm 2010, được triển khai thực hiện từ cuối năm 2011 nhưng mãi đến hơn hai năm sau là ngày 18/12/2014 Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T mới tiến hành giao quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ để tiến hành bồi thường cho ông Trần Văn H, do đó việc để kéo dài chậm thực hiện bồi thường cho ông Trần Văn H, dẫn đến ông Trần Văn H phải khiếu nại để yêu cầu giải quyết đồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm bồi thường là lỗi của Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T, UBND huyện T, cho nên ông Trần Văn H đề nghị được bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm bồi thường (thời điểm thu hồi đất) là hoàn toàn có cơ sở.

Trường hợp do địa phương không có quỹ đất để hoán đổi cho ông Trần Văn H thì phải xem xét điều chỉnh, tham mưu UBND tỉnh có phương án thẩm định lại giá đất để bồi thường cho người dân kịp thời, hạn chế gây thiệt hại cho người dân vì đây là trường hợp bồi thường chậm, lỗi thuộc về UBND thị xã T nhưng UBND tỉnh B, UBND thị xã T giải quyết khiếu nại khẳng định việc giải tỏa, bồi thường cho ông Trần Văn Hai là đúng quy định để né tránh trách nhiệm, gây bức xúc, làm giảm lòng tin của người dân và các cơ quan quản lý hành chính của địa phương, dẫn đến việc khiếu nại kéo dài.

Từ những nội dung trình bày trên cho thấy việc UBND thị xã T thực hiện bồi thường, giải tỏa quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H là trái pháp luật nhưng Chủ tịch UBND huyện (nay là thị xã T), Chủ tịch UBND tỉnh B giải quyết khiếu nại của ông Trần Văn H tiếp tục khẳng định bồi thường, giải tỏa quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H đã đúng quy định pháp luật. Do đó, ông Trần Văn H khởi kiện Ủy ban nhân dân thị xã T đến Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, với yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Hủy quyết định 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đợt 1: đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã (nay phường) K, huyện (nay thị xã) T, tỉnh Bình Dương;

- Hủy Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất;

- Hủy Quyết định số: 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;

- Hủy Công văn số: 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn H;

- Hủy Quyết định 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1);

  • Hủy Quyết định 2731/QĐ-UBND ngày A 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).

*Ông Trần Văn H thống nhất lời trình bày của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông.

*Bà Hà Thị P thống nhất lời trình bày của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông H.

*Tại bản tường trình của người đại diện hợp pháp của người bị kiện Ủy ban nhân dân thị xã T, Chủ tịch UBND thị xã T - ông Ngô Quang S trình bày:

  • Về cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục bồi thường công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh:

+ Ngày 20/9/2010, UBND huyện T (nay là thị xã T) ban hành Thông báo số 277/TB-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện dự án tỉnh lộ ĐT 747B, đoạn Bình Chuẩn - Hội Nghĩa.

+ Ngày 13/10/2011, UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2998/QĐ-UBND về việc phê duyệt Dự án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh.

+ Ngày 03/5/2012, UBND huyện T (nay là thị xã T) ban hành Thông báo số 201/TB-UBND về việc điều chỉnh Thông báo số 277/TB-UBND ngày 20/9/2010 của UBND huyện T về việc thu hồi đất để thực hiện dự án tỉnh lộ ĐT 747B, đoạn Bình Chuẩn - Hội Nghĩa.

+ Ngày 27/10/2011, Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) tổ chức họp công khai Dự án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh tại xã K (nay là phường K).

+ Ngày 28/12/2011, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) kiểm kê đất và tài sản gắn liền với đất cho ông Trần Văn H và ngày 13/8/2012, Trung tâm Phát triển quỹ đất đã thực hiện áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H với tổng số tiền là 1.518.515.550 đồng (Một tỷ năm trăm mười tám triệu năm trăm mười lăm nghìn năm trăm năm mươi đồng).

+ Ngày 10/5/2012 và ngày 11/5/2012, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) tổ chức họp công khai dự thảo Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đoạn thuộc xã K). Đồng thời niêm yết công khai tại trụ sở UBND phường K và các Văn phòng khu phố nơi có đất bị ảnh hưởng công trình từ ngày 11/5/2012 đến ngày 31/5/2012 (có Biên bản làm việc).

+ Ngày 05/6/2012, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) kết thúc niêm yết công khai Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đoạn thuộc phường K). Trong thời gian từ ngày 11/5/2012 đến ngày 31/5/2012.

+ Ngày 23/8/2012, UBND huyện (nay là thị xã) T ban hành Quyết định số 8493/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P thường trú tại Khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

+ Ngày 03/10/2012, UBND huyện T (nay là thị xã T) ban hành Quyết định số 9858/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (Đợt 1: Đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã K, huyện T, tỉnh Bình Dương).

+ Ngày 10/10/2012, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) niêm yết công khai Quyết định số 9858/QĐ- UBND về việc phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (Đợt 1: Đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã K, huyện T, tỉnh Bình Dương) tại trụ sở UBND K (nay là phường K) và các Văn phòng khu phố nơi có đất bị ảnh hưởng công trình.

- Về việc bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P:

Ông Trần Văn H và bà Hà Thị P có các thửa đất nằm trong công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh như sau:

+ Thửa đất số 160 diện tích trước khi thu hồi là 378m2 và thửa đất số 23 diện tích trước khi thu hồi là 1.113m2, tờ bản đồ số 33 tại xã K, loại đất CLN được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 04029 ngày 04/8/2008.

+ Thửa đất số 68 diện tích trước khi thu hồi là 1.728 m2, tờ bản đồ số 33 tại xã K, loại đất ONT+CLN được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H04041 ngày 04/8/2008.

+ Thửa đất số 337 diện tích trước khi thu hồi là 2.557 m2 tờ bản đồ số 33 tại xã K, loại đất CLN được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H04040 ngày 04/8/2008.

Ngày 23/8/2012, UBND huyện T (nay là thị xã T) ban hành Quyết định số 8493/QĐ-UBND thu hồi diện tích 2028,2 m2 thuộc một phần thửa đất số 160, 337, 68, 23 tờ bản đồ số 33 tại xã Khánh Bình của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P, thường trú tại khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương, để thực hiện công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh, loại đất thu hồi là CLN: 2028,2 m2.

Ngày 19/9/2012, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T đã mời hộ ông Trần Văn H và bà Hà Thị P (theo Giấy mời số 112/GM-TN&MT) đến UBND xã K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất. Tại buổi làm việc, UBND xã K đã lập biên bản các hộ dân không đến dự (trong đó có hộ ông Trần Văn H và bà Hà Thị P). Cùng ngày, UBND xã K đã lập biên bản niêm yết, công khai danh sách các hộ dân có đất bị thu hồi kèm theo các quyết định thu hồi đất của các hộ dân (Biên bản làm việc ngày 26/9/2012).

Ngày 19/10/2012, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T tiếp tục mời ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đến UBND xã K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất (theo giấy mời số 112/GM-TN&MT lần 2). Tuy nhiên, ông Trần Văn H và bà Hà Thị P không đến làm việc theo thư mời.

Tài sản gắn liền với đất trong phạm vi giải tỏa có 04 cây xà cừ (đường kính > 20) đã được kiểm kê trong Biên bản kiểm kê số 316/BBKK ngày 28/12/2011 của Trung tâm Phát triển quỹ đất.

Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P như sau:

+ Bồi thường về đất CLN: 2028,2 m2 x 168.000 đ/m2 = 340.737.600 đồng

+ Hỗ trợ đất nắn tuyến: 103 m2 x 941.850 đ/m2 = 97.010.550 đồng

+ Hỗ trợ đất NN (=70%): 521,5m2 x 941.850 đ/m2 = 491.174.775 đồng

+ Hỗ trợ đất NN (=50%): 875,5 m2 x 672.750 đ/m2 = 588.992.625 đồng

+ Cây trồng trên đất: 600.000 đồng

=> Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là: 1.518.515.550 đồng

Ngày 16/10/2012, UBND huyện (nay là thị xã) T ban hành Quyết định số 10492/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là: 1.518.515.550 đồng. Trong đó:

+ Bồi thường về đất: 340.737.600 đồng

+ Hỗ trợ về đất: 1.177.177.950 đồng

+ Cây cối: 600.000 đồng

Ngày 18/12/2014, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 cho ông Trần Văn H.

Ngày 21/3/2016, UBND thị xã T ban hành Thông báo số 187/TB-UBND ngày 21/3/2016 về việc nhận tiền bồi thường và bàn giao đất thu hồi. Ngày 24/3/2016, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp UBND phường K công bố và bàn giao Thông báo trên cho ông Trần Văn H. Kết quả ông H đã nhận thông báo nhưng không đồng ý giá bồi thường, đang khiếu nại tại UBND tỉnh, yêu cầu gặp Chủ tịch UBND thị xã đối thoại.

- Về quá trình giải quyết đơn kiến nghị:

Ngày 24/12/2014, ông Trần Văn H làm đơn kiến nghị xem xét việc áp giá bồi thường, hỗ trợ đối với 2899,2m2 đất của ông bị thu hồi theo Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 thuộc Công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh.

Ngày 29/5/2015, UBND thị xã T ban hành Công văn số 3131/UBND-TD về việc trả lời đơn của ông Trần Văn H, cụ thể như sau:

+ Đối với ý kiến tại sao đến nay, hơn 2 năm kiểm kê, mới đưa quyết định bồi thường và bảng áp giá cho ông, trong khi quyết định có ghi rõ ông có quyền khiếu nại trong vòng 90 ngày: Việc này nguyên nhân do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bổ cho Dự án không đủ để chi trả bồi thường cho dân nên không mời ông Trần Văn H đến để giao Quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ. Về thời hiệu khiếu nại: Khoản 3 Điều 2 Quyết định số 10492/QĐ- UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T quy định ông Trần Văn H và bà Hà Thị P có quyền khiếu nại quyết định này trong thời hạn 90 (chín mươi) ngày kể từ ngày nhận quyết định. Ông Trần Văn H đã nhận quyết định bồi thường vào ngày 18/12/2014. Theo đó, thời hiệu khiếu nại Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 được tính từ ngày ông Trần Văn H ký nhận Quyết định số 10492/QĐ- UBND (ngày 18/12/2014).

+ Về trình tự, thủ tục thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất đã thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục được quy định tại Điều 46 và điều 47 Quyết định số 87/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B. Trong quá trình thực hiện Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất đã phối hợp với UBND phường K tổ chức họp dân công khai Phương án bồi thường, niêm yết công khai Phương án bồi thường (có biên bản họp dân, biên bản công khai).

+ Ông Trần Văn H đề nghị thẩm định lại giá đất, thẩm định lại phương án bồi thường, hỗ trợ theo Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012, nhưng đến ngày 18/12/2014 mới giao cho ông là không có căn cứ để xem xét giải quyết vì Phương án bồi thường, hỗ trợ được phê duyệt tại Quyết định số 9858/QĐ- UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện (nay là thị xã) được niêm yết công khai đúng trình tự, thủ tục; đơn giá bồi thường, hỗ trợ trong Phương án bồi thường được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên-Môi trường: “giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm ”.

+ Đối với ý kiến nếu không thể điều chỉnh giá đất theo giá thị trường, đề nghị chủ đầu tư và chính quyền địa phương có phương án đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và có giá trị tương đương: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định: Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất”. Do địa phương không có quỹ đất để bồi thường nên các hộ dân có đất bị thu hồi để thực hiện công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT- 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Ông Trần Văn H đề nghị đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và có giá trị tương đương là không thực hiện được.

Như vậy, việc bồi thường, hỗ trợ đối với diện 2899,2m2 đất bị thu hồi của ông Trần Văn Hai là đúng theo quy định.

Ngày 6/9/2016, UBND thị xã T tổ chức gặp gỡ, đối thoại với ông Trần Văn H về một số nội dung liên quan đến công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng để triển khai thực hiện công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT- 747B. Kết quả yêu cầu ông Trần Văn H gửi đơn tại Ban Tiếp công dân thị xã để được viết biên nhận và giải quyết theo quy định.

Ngày 18/11/2016, Phòng Tài nguyên và Môi trường tổ chức gặp gỡ, đối thoại với ông Trần Văn H. Kết quả đối thoại ông Trần Văn H không đồng ý các Quyết định thu hồi đất, Quyết định cũ đã ban hành trước dây, tôi chỉ đồng ý nhận các Quyết định mới ban hành năm 2015. Nếu không ban hành các Quyết định mới năm 2015, yêu cầu sớm ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu để ông có quyền khiếu nại lên cấp có thẩm quyền.

Ngày 30/12/2016, Chủ tịch UBND thị xã ban hành Quyết định số 6465/QĐ- UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lầu đầu), với nội dung:

+ Bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H đối với việc xem xét hủy Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T; hủy Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T; xác định lại giá đất bồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm UBND thị xã T bàn giao Quyết định thu hồi đất hoặc hoán đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương.

+ Giữ nguyên Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T.

Ngày 17/02/2017, Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 371/QĐ- UBND về việc giao nhiệm vụ xác minh nội dung khiếu nại, trong đó giao Thanh tra tỉnh xác minh làm rõ nội dung khiếu nại của ông Trần Văn H.

Ngày 09/3/2017 và ngày 17/4/2017, Thanh tra tỉnh tổ chức làm việc với UBND thị xã T về một số vấn đề liên quan đến nội dung khiếu nại của ông Trần Văn H.

Ngày 11/10/2017, Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2731/QĐ- UBND về việc giải quyết đơn của ông Trần Văn H khiếu nại Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 của Chủ tịch UBND thị xã T (lần hai).

Từ những căn cứ và nội dung nêu trên, cho thấy việc bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P là đúng theo phương án bồi thường đã được phê duyệt và đúng theo quy định, Chủ tịch UBND thị xã T ban hành Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 là đúng quy định của pháp luật. Do đó, UBND thị xã đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B xem xét, giải quyết vụ án theo quy định.

*Tại bản giải trình của người đại diện hợp pháp của người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B là ông Mai Hùng D - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B trình bày:

Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được UBND tỉnh phê duyệt dự án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Quyết định số 2998/QĐ- UBND ngày 13/10/2011; UBND huyện Tân Uyên phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012.

Ngày 20/9/2011, UBND huyện (nay là thị xã) T ban hành Thông báo số 201/TB-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án tỉnh lộ ĐT747B đoạn Bình Chuẩn - Hội Nghĩa.

Ngày 28/12/2011, Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện T (nay Chi nhánh Trung tâm Phát triển Quỹ đất thị xã T) tiến hành kiểm kê đất và tài sản trên đất đối với hộ ông Trần Văn H (Biên bản kiểm kê số 316/BBKK).

Ngày 13/8/2012, Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện T lập Biên bản áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H (Bảng áp giá số 61/TTPTQĐ-KT). Trên cơ sở đó, UBND huyện T ban hành Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P, với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là 1.518.515.550 đồng, trong đó:

+ Thửa đất số 160: Diện tích thu hồi 292m2 (đất cây lâu năm) x 168.000 đồng/m2 = 49.056.000 đồng, hỗ trợ nắn tuyến: 37m2 x 941.850 đồng/m2 (70% x 1.345.500 đồng/m2) = 34.848.450 đồng.

+ Thửa đất số 23: Diện tích thu hồi 355m2 (đất cây lâu năm) x 168.000 đồng/m2 = 59.640.000 đồng, hỗ trợ nắn tuyến: 66m2 x 941.850 đồng/m2 (70% x 1.345.500 đồng/m2) = 62.162.100 đồng.

+ Thửa đất số 337: Diện tích thu hồi 859,7m2 (đất cây lâu năm) x 168.000 đồng/m2 = 144.429.600 đồng.

+ Thửa đất số 68: Diện tích thu hồi 521,5m2 (đất cây lâu năm) x 168.000 đồng/m2 = 87.612.000 đồng, hỗ trợ đất nông nghiệp do trong cùng thửa đất có nhà ở là: 521,5m2 x 941.850 đồng/m2 (70% x 1.345.500 đồng/m2) = 491.174.775 đồng.

+ Phần diện tích đất nông nghiệp còn lại được hỗ trợ: 875,5m2 x 672.750 đồng/m2 (50% x 1.345.500 đồng/m2) = 588.992.625 đồng.

+ Bồi thường cây trái, hoa màu trên đất: 600.000 đồng.

Ngày 23/8/2012, UBND huyện T ban hành Quyết định số 8493/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P.

Ngày 19/9/2012, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T đã mời hộ ông Trần Văn H và bà Hà Thị P (theo Giấy mời số 112/GM-TN&MT) đến UBND xã K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất. Tại buổi làm việc, UBND xã K lập biên bản các hộ dân không đến dự (trong đó có hộ ông Trần Văn H và bà Hà Thị P). Cùng ngày, UBND xã K đã lập biên bản niêm yết, công khai danh sách các hộ dân có đất bị thu hồi, kèm theo các quyết định thu hồi đất của các hộ dân (Biên bản làm việc ngày 26/9/2012).

Ngày 16/10/2012, UBND huyện T ban hành Quyết định số 10492/QĐ- UBND về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P với tổng số tiền là 1.518.515.550 đồng.

Ngày 19/10/2012, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T tiếp tục mời ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đến UBND K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất (theo giấy mời số 112/GM-TN&MT- lần 2). Tuy nhiên, ông Trần Văn H và bà Hà Thị P không đến làm việc theo thư mời.

Ngày 15/12/2014, Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện T mời hộ ông Trần Văn H đến nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

Ngày 18/12/2014, hộ ông Trần Văn H có đến làm việc theo thư mời nhưng gia đình ông H không đồng ý nhận tiền bồi thường và các chính sách hỗ trợ.

Không đồng ý với kết quả áp giá bồi thường, hỗ trợ, ông Trần Văn H khiếu nại Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của Chủ tịch UBND huyện T và yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, bồi thường 2028,2m2 đất theo giá thị trường tại thời điểm UBND thị xã T bàn giao quyết định thu hồi đất hoặc hoán đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và vị trí tương đương.

- Việc Trần Văn H yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, là không có cơ sở xem xét, giải quyết, vì:

Dự án Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được UBND tỉnh phê duyệt Dự án tổng thể tại Quyết định số 2998/QĐ-UBND ngày 13/10/2011 trên cơ sở Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ (quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái định cư); theo đó, tại Điều 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ, không quy định phải bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, chỉ quy định gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, để đảm bảo tính công khai, minh bạch và thông tin đến cho người dân, cơ quan chức năng của UBND huyện T cũng đã 02 lần mời ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đến UBND K để công bố, bàn giao quyết định thu hồi đất (lần 1 ngày 19/9/2012; lần 2 ngày 19/10/2012), nhưng cả 02 lần ông Trần Văn H, bà Hà Thị P đều không đến và UBND xã K đã lập Biên bản, niêm yết công khai danh sách các hộ bị thu hồi đất, kèm theo quyết định thu hồi đất tại trụ sở UBND xã K.

- Về nội dung ông Trần Văn H yêu cầu bồi thường 2.028,2m2 đất theo giá thị trường tại thời điểm UBND thị xã T bàn giao quyết định thu hồi đất hoặc hoán đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và vị trí tương đương, là không có cơ sở xem xét, giải quyết, vì: UBND huyện T đã áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đúng theo phương án bồi thường, hỗ trợ mà UBND huyện T phê duyệt tại Quyết định số A9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 và trong Phương án trên cũng không quy định về việc hoán đổi đất, hơn nữa địa phương cũng không có quỹ đất để hoán đổi.

- Căn cứ Khoản 2, Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 28/9/2009 của Chính phủ, quy định: “Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất...”; đối chiếu quy định trên, thì Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện T thực hiện đúng quy định và áp giá bồi thường theo đơn giá được phê duyệt năm 2012 (cùng thời điểm ban hành quyết định thu hồi đất).

Từ những nội dung trên, việc Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 giải quyết bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H đối với Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 của Chủ tịch UBND thị xã T, là đúng quy định pháp luật.

Đến nay, Chủ tịch UBND tỉnh B vẫn giữ nguyên quan điểm giải quyết tại Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017. Đồng thời, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương tuyên xử bác đơn khởi kiện của ông Trần Văn H; công nhận nội dung Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh là đúng theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 15/2018/HC-ST ngày 20 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H đối với yêu cầu: Hủy Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đợt 1: đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã (nay phường) K, huyện (nay thị xã) T, tỉnh Bình Dương; Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất; Quyết định số: 10492/QĐ- UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; Công văn số: 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn H; Quyết định số 6465/QĐ- UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1); Quyết định số 2731/QĐ- UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí hành chính sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 23/7/2018 người khởi kiện ông Trần Văn H kháng cáo toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm nêu trên.

Tại đơn kháng cáo và trước phiên tòa phúc thẩm hôm nay người khởi kiện ông Trần Văn H đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm hủy các Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T; Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T; Quyết định số: 10492/QĐ- UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T; Công văn số: 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T; Quyết định số 6465/QĐ- UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T; Quyết định số 2731/QĐ- UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B.

Người bị kiện Chủ tịch UBND tỉnh B, UBND thị xã T và Chủ tịch UBND thị xã T vắng mặt.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện cho rằng các quyết định thu hồi đất có sai sót về trình tự thủ tục ban hành; các quyết định phê duyệt phương án bồi thường và bồi thường, các quyết định giải quyết khiếu nại là trái quy định bởi vì hai quyết định này được ban hành từ năm 2012 nhưng đến năm 2014 mới giao cho ông H nhưng lại áp giá năm 2012. Từ đó, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện sửa bản án sơ thẩm và hủy các quyết định nói trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 15/2018/HC-ST ngày 20/7/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1]. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện và ý kiến của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2]. Người khởi kiện ông Trần Văn H khởi kiện yêu cầu Tòa án:

  • Hủy Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đợt 1: đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã (nay phường) K, huyện (nay thị xã) T, tỉnh Bình Dương.
  • Hủy Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất.
  • Hủy Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
  • Hủy Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn Hai.

- Hủy Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1).

- Hủy Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).

[3]. Xét thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành các quyết định bị khiếu kiện: Căn cứ khoản 2 Điều 44 Luật đất đai năm 2003; Điều 18, Điều 40 của Luật Khiếu nại; Điều 126, Điều 127 của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 thì các quyết định nói trên được ban hành đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

[4]. Về nội dung:

[5]. Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được UBND tỉnh Bình Dương phê duyệt dự án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Quyết định số 2998/QĐ-UBND ngày 13/10/2011; UBND huyện T phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 có kèm theo phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư. Ngày 13/8/2012 Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Tân Uyên lập biên bản áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H.

[6]. Ngày 23/8/2012 UBND huyện T ban hành Quyết định số 8493/QĐ- UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P và Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H với tổng số tiền 1.518.515.550 đồng. Ông Trần Văn H cho rằng các Quyết định này được ban hành trên những căn cứ trái luật, hồ sơ khống kèm theo Quyết định nêu trên là biên bản kiểm kê đất và tài sản trên đất lập ngày 20/12/2011 nhưng ông H hoàn toàn không nhận được biên bản kiểm kê tài sản có bảng vẽ hiện trạng vị trí đất của ông bị giải tỏa, không xác định được ranh mốc phần đất bị giải tỏa thì làm sao xác định được diện tích đất bị giải tỏa là bao nhiêu để thu hồi đất và tính giá bồi thường; đồng thời bản áp giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 61/TTPTQĐ-KT lập ngày 13/8/2012 còn được thực hiện trước khi UBND huyện T ra Quyết định thu hồi đất của ông Trần Văn H.

[7]. Ngày 18/12/2014 Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 cho ông Trần Văn Hai. Ông Trần Văn H không đồng ý giá bồi thường tại Quyết định số 10492/QĐ- UBND vì cho rằng: Theo khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định “Giá đất để tính bồi thường quy định tại Điều 11 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm” thì ông H phải được bồi thường theo giá đất năm 2015, nhưng Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T lại áp giá theo giá đất tại thời điểm năm 2012. Mặt khác, theo khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định thì giá đất tính bồi thường là giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất và hiện nay ông Trần Văn H vẫn chưa nhận được Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T, UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất. Do đó, ông Trần Văn H đề nghị được bồi thường giá đất tại thời điểm thu hồi đất là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[8]. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Nghị định số 69/2009/NĐ- CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ và khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT- BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về giá đất để tính bồi thường và xác định giá đất trong một số trường hợp cụ thể thì giá đất tại thời điểm thu hồi đất chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì UBND cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể để quyết định giá đất tính bồi thường cho phù hợp và không bị giới hạn bởi quy định về khung giá các loại đất.

[9]. Ngày 18/12/2014 Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất mới công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương cho ông Trần Văn H. Lý do sau hai năm mới triển khai quyết định bồi thường theo Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên là do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bố cho dự án không đủ để chi trả bồi thường cho dân nên không mời ông H đến để giao quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ. Như vậy việc ông Trần Văn H không được nhận bồi thường tại thời điểm có Quyết định thu hồi đất số 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND huyện T không phải lỗi từ phía ông H mà lỗi từ cơ quan chủ quản như đã nêu trên.

[10]. Ông Trần Văn H không đồng ý nhận tiền bồi thường do Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T thực hiện việc giải tỏa, bồi thường đối với 2899,2m2 của ông Trần Văn H trái các quy định của pháp luật về giải tỏa, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nên ông Trần Văn H có đơn khiếu nại việc áp giá bồi thường, hỗ trợ đối với 2899,2m2 đất của ông H đến UBND thị xã T.

[11]. Ngày 29/5/2015 UBND thị xã T ban hành Công văn số 3131/UBND- TD trả lời đơn của ông Trần Văn H, cho rằng Trung tâm phát triển quỹ đất đã bồi thường, hỗ trợ với diện tích 2899,2m2 đất của ông Trần Văn H bị thu hồi là đúng trình tự, thủ tục thu hồi và bồi thường.

[12]. Không đồng ý với kết quả giải quyết của UBND thị xã T tại Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015, ông Trần Văn H tiếp tục khiếu nại đến UBND thị xã T yêu cầu hủy bỏ Công văn số 3131/UBND-TD, đồng thời yêu cầu UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H theo đúng quy định của pháp luật; hủy Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ tái định cư và xác định lại giá đất bồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H hoặc hoán đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương.

[13]. Ngày 30/12/2015 Chủ tịch UBND thị xã T ban hành Quyết định số 6465/QĐ- UBND bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H, giữ nguyên Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T.

[14]. Không đồng ý với việc UBND thị xã T giải quyết khiếu nại trên, ngày 11/10/2017 ông Trần Văn H khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh B.

[15]. Tại Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H, với nội dung:

[16]. Việc ông Trần Văn H yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất là không có cơ sở xem xét, giải quyết vì Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ không quy định phải bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, chỉ quy định gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên trong trường hợp này, Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Tân Uyên không “gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư” đến ông Trần Văn H là người có đất bị thu hồi mà chỉ mời ông H đến UBND K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất là trái với quy định của pháp luật. Ngoài ra theo khoản 1 Điều 93 Luật đất đai năm 2013 quy định “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi” và khoản 2 Điều 93 quy định “Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả”. Như vậy có căn cứ pháp lý để xem xét xác định việc ông Trần Văn H khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định như trên là đúng quy định của pháp luật, cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn H.

[17] Từ các nhận định nêu trên Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H, sửa Bản án sơ thẩm hủy các quyết định về thu hồi đất, về phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư và quyết định giải quyết khiếu nại, giao cho UBND thị xã T giải quyết lại.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.

Chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H, sửa Bản án hành chính sơ thẩm.

Căn cứ vào các Điều: 30, 32, khoản 2 Điều 79, 116, 134, khoản 1 Điều 158, khoản 1 Điều 164, điểm a khoản 2 Điều 193 và Điều 194 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Điều 18, Điều 40 của Luật Khiếu nại; Điều 41, 42 của Luật Đất đai năm 2003; khoản 2, Điều 14, Điều 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 28/9/2009 của Chính phủ; khoản 2 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn H đối với Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đợt 1: đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã (nay phường) K, huyện (nay thị xã) T, tỉnh Bình Dương.

Chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H, sửa Bản án hành chính sơ thẩm. Hủy các Quyết định hành chính sau đây của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương:

- Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất;

- Quyết định số: 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;

- Công văn số: 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn H;

- Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1);

- Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).

2. Về án phí:

- Án phí hành chính sơ thẩm:

Ông Trần Văn H không phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm, hoàn trả cho ông H số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0010852 ngày 29/11/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương.

Người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B; Ủy ban nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương; Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương mỗi người phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm.

- Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Trần Văn H không phải chịu 300.000 đồng và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0026781 ngày 25/7/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ tuyên án.

NỘI DUNG ÁN LỆ:

“[6]. Ngày 23/8/2012 UBND huyện T ban hành Quyết định số 8493/QĐ- UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P và Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H với tổng số tiền 1.518.515.550 đồng. Ông Trần Văn H cho rằng các Quyết định này được ban hành trên những căn cứ trái luật, hồ sơ khống kèm theo Quyết định nêu trên là biên bản kiểm kê đất và tài sản trên đất lập ngày 20/12/2011 nhưng ông H hoàn toàn không nhận được biên bản kiểm kê tài sản có bảng vẽ hiện trạng vị trí đất của ông bị giải tỏa, không xác định được ranh mốc phần đất bị giải tỏa thì làm sao xác định được diện tích đất bị giải tỏa là bao nhiêu để thu hồi đất và tính giá bồi thường; đồng thời bản áp giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 61/TTPTQĐ-KT lập ngày 13/8/2012 còn được thực hiện trước khi UBND huyện T ra Quyết định thu hồi đất của ông Trần Văn H.

[7]. Ngày 18/12/2014 Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 cho ông Trần Văn H. Ông Trần Văn H không đồng ý giá bồi thường tại Quyết định số 10492/QĐ-UBND vì cho rằng: Theo khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định “Giá đất để tính bồi thường quy định tại Điều 11 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm” thì ông H phải được bồi thường theo giá đất năm 2015, nhưng Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T lại áp giá theo giá đất tại thời điểm năm 2012. Mặt khác, theo khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định thì giá đất tính bồi thường là giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất và hiện nay ông Trần Văn H vẫn chưa được Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T, UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất. Do đó, ông Trần Văn H đề nghị được bồi thường giá đất tại thời điểm thu hồi đất là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.”

DO ĐỀ XUẤT ÁN LỆ

(Bản án hành chính phúc thẩm số 427/2019/HC-PT ngày 09/7/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về việc “khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất” giữa Người khởi kiện là ông Trần Văn H; Người bị kiện là UBND tỉnh B UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương).

Trong thực tiễn giải quyết các vụ án án hành chính liên quan đến việc bồi thường khi thu hồi đất hiện nay có rất nhiều trường hợp cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất, nhưng lại chậm công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất. Do đó, khi công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất thì giá đất đã có sự thay đổi, người bị thu hồi đất không đồng ý với giá đất bồi thường tại thời điểm ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, dẫn đến khiếu kiện hành chính.

Theo khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định “Giá đất để tính bồi thường quy định tại Điều 11 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm”.

Trong vụ án này, UBND huyện T ban hành các Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bị thu hồi đất từ năm tháng 8/2012. Tuy nhiên, do không có kinh phí để chi trả bồi thường nên đến tháng 12/2014 thì UBND huyện T mới công bố và giao Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bị thu hồi đất, dẫn đến giá đất được bồi thường tại thời điểm ra quyết định thu hồi và thời điểm công bố và giao quyết định cho người bị thu hồi đất có sự chênh lệch lớn. Người khởi kiện là người bị thu hồi đất yêu cầu được bồi thường theo giá đất tại thời điểm nhận quyết định thu hồi. Trường hợp này, Tòa án xác định lỗi chậm công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất là thuộc cơ quan có thẩm quyền nên đã xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường cho người bị thu hồi đất là giá đất tại thời điểm thu hồi đất là phù hợp, đảm bảo quyền lợi của người bị thu hồi đất.

Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học thấy rằng đây là tình huống vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau, người bị thu hồi đất khiếu nại các Quyết định hành chính theo thủ tục hành chính thường không được chấp nhận. Do đó, khi người bị thu hồi đất khởi kiện hành chính thì giải pháp mà Tòa án đưa ra trong bản này là xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường cho người bị thu hồi đất là giá đất tại thời điểm thu hồi đất là phù hợp, đảm bảo quyền lợi của người bị thu hồi đất. Tình huống này có thể thể xem xét phát triển án lệ để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong các vụ án có tình huống pháp lý tương tự.

Nguồn Trang tin điện tử về án lệ (anle.toaan.gov.vn)

[1] Án lệ này do Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, Tòa án nhân dân tối cao đề xuất.

Sự kiện bất khả kháng và sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản: Khi cuộc sống “đổi kịch bản” hợp đồng

Trong đời sống pháp luật, hợp đồng giống như một bản cam kết: hai bên hứa sẽ làm đúng những gì đã thỏa thuận. Nhưng cuộc sống đâu phải lúc nào cũng êm ru – đôi khi, những chuyện ngoài tầm tay xảy ra, khiến việc thực hiện hợp đồng trở thành “nhiệm vụ bất khả thi”. Lúc đó, pháp luật Việt Nam đưa ra hai “cứu tinh”: sự kiện bất khả kháng và sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản. Hai khái niệm này thoạt nhìn giống nhau, nhưng lại có những điểm khác biệt thú vị, và mối quan hệ giữa chúng cũng đáng để nghiền ngẫm. Hãy cùng tìm hiểu nhé!

Sự kiện bất khả kháng: Khi “trời đất” không cho phép

Sự kiện bất khả kháng, theo Điều 156, Khoản 1, Bộ luật Dân sự 2015, là “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Nói dễ hiểu, đây là những chuyện “từ trên trời rơi xuống” mà bạn không kiểm soát nổi, như thiên tai, chiến tranh, hay dịch bệnh lớn.

Ví dụ nhé: Bạn ký hợp đồng thuê một hội trường để tổ chức hội thảo vào tháng 3/2020. Nhưng đúng lúc đó, dịch Covid-19 bùng phát, Chính phủ ban hành lệnh giãn cách, cấm tụ tập đông người. Bạn không thể tổ chức hội thảo, bên cho thuê cũng không thể giao hội trường. Đây là sự kiện bất khả kháng, vì không ai ngờ được đại dịch, và dù có muốn, bạn cũng không thể “chống lệnh” Chính phủ. Theo Điều 351, Khoản 2, bên vi phạm hợp đồng vì bất khả kháng sẽ được miễn trách nhiệm – tức là bạn không phải bồi thường, và bên cho thuê cũng không thể kiện bạn.

Sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản: Khi mọi thứ “đổi game”

Còn sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản thì sao? Theo Điều 420, Khoản 2, Bộ luật Dân sự 2015, đây là trường hợp hoàn cảnh thay đổi quá lớn so với lúc ký hợp đồng, đến mức nếu biết trước, các bên đã không ký hoặc ký với điều kiện khác. Khác với bất khả kháng, nó không hẳn là “bất khả thi” để thực hiện hợp đồng, mà là thực hiện thì quá bất công hoặc thiệt hại nặng nề.

Hãy tưởng tượng bạn ký hợp đồng mua 100 tấn gạo với giá 10 triệu đồng/tấn để bán lại kiếm lời. Nhưng ngay sau đó, Chính phủ đột ngột cấm xuất khẩu gạo do thiếu hụt trong nước, khiến giá gạo vọt lên 20 triệu đồng/tấn. Bạn vẫn có thể giao gạo, nhưng nếu giao với giá cũ, bạn lỗ to! Đây là sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản, vì tình hình thị trường thay đổi ngoài dự đoán, làm mục đích kinh doanh của bạn tan vỡ. Lúc này, luật cho phép bạn thương lượng lại hợp đồng, hoặc nếu không thỏa thuận được, tòa án can thiệp để điều chỉnh hay chấm dứt hợp đồng.

Điểm giống nhau: Đều là “cú twist” ngoài ý muốn

Nhìn qua, bạn sẽ thấy sự kiện bất khả kháng và sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản có một điểm chung: chúng đều là những “cú twist” bất ngờ, không ai lường trước khi ký hợp đồng. Cả hai đều nhằm bảo vệ các bên khỏi những rủi ro không đáng có, để không ai phải “gánh” hậu quả từ những chuyện ngoài tầm kiểm soát.

Chẳng hạn, trong vụ Covid-19, một công ty thuê mặt bằng mở nhà hàng có thể viện dẫn bất khả kháng để xin miễn tiền thuê khi phải đóng cửa hoàn toàn do giãn cách. Nhưng nếu nhà hàng vẫn mở bán mang về mà doanh thu giảm thê thảm vì khách ngại ra ngoài, họ có thể dùng lý do thay đổi hoàn cảnh cơ bản để xin giảm tiền thuê. Dù cách xử lý khác nhau, cả hai đều xuất phát từ tình huống bất ngờ: đại dịch.

Điểm khác nhau: “Không thể” hay “không nên”?

Tuy nhiên, hai khái niệm này không giống nhau hoàn toàn. Sự khác biệt lớn nhất nằm ở mức độ ảnh hưởnggiải pháp:

  • Sự kiện bất khả kháng: Là khi thực hiện hợp đồng trở nên bất khả thi. Như vụ hội thảo bị cấm vì giãn cách, không ai có thể làm gì để thay đổi tình hình. Giải pháp ở đây là miễn trách nhiệm, coi như “huề cả làng”.
  • Sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản: Là khi thực hiện hợp đồng vẫn có thể nhưng quá bất lợi hoặc không còn ý nghĩa. Như vụ giá gạo tăng vọt, bạn vẫn giao được hàng nhưng giao thì lỗ nặng. Giải pháp là thương lượng lại hoặc nhờ tòa án điều chỉnh, không phải miễn trách nhiệm hoàn toàn.

Ví dụ nữa cho rõ nha: Bạn thuê một chiếc thuyền để chở khách du lịch trên sông. Nếu bão lớn bất ngờ ập đến, nước ngập, không ai ra sông được – đó là bất khả kháng, bạn được miễn trách nhiệm. Nhưng nếu nước sông đột nhiên cạn bất thường do hạn hán, thuyền vẫn chạy được nhưng khách không muốn đi vì cảnh xấu – đó là thay đổi hoàn cảnh cơ bản, bạn có thể xin điều chỉnh hợp đồng thuê thuyền.

Mối quan hệ: Bổ sung hay chồng lấn?

Vậy mối quan hệ giữa hai khái niệm này là gì? Chúng không đối lập mà bổ sung cho nhau, như hai mặt của một đồng xu vậy. Sự kiện bất khả kháng thường là “cấp độ cao” hơn, khi hoàn cảnh không chỉ thay đổi mà còn ngăn cản hoàn toàn việc thực hiện hợp đồng. Trong khi đó, sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản là “cấp độ nhẹ” hơn, khi hợp đồng vẫn khả thi nhưng không còn công bằng.

Tuy nhiên, đôi khi ranh giới giữa chúng khá mong manh, dễ gây nhầm lẫn. Chẳng hạn, trong vụ Covid-19, nếu một bên cho rằng giãn cách là bất khả kháng (vì không thể mở cửa hàng), bên kia có thể lập luận đó chỉ là thay đổi hoàn cảnh cơ bản (vì vẫn bán online được). Tòa án sẽ xem xét cụ thể: nếu việc thực hiện hợp đồng hoàn toàn bất khả thi, đó là bất khả kháng; nếu chỉ bất lợi hơn, đó là thay đổi hoàn cảnh. Điều này đòi hỏi người áp dụng luật – từ luật sư đến thẩm phán – phải linh hoạt và hiểu rõ bản chất hợp đồng.

Ứng dụng thực tế: Hiểu để không “đứt gánh”

Hiểu rõ hai khái niệm này rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh Việt Nam thường xuyên đối mặt với thiên tai, dịch bệnh, hay biến động kinh tế. Khi ký hợp đồng, bạn nên thêm điều khoản về bất khả kháng (như “nếu có bão, lũ, dịch bệnh, hai bên được miễn trách nhiệm”) và thay đổi hoàn cảnh (như “nếu giá thị trường biến động quá 30%, hai bên sẽ phải thương lượng lại”). Điều này giúp giảm rủi ro và tránh tranh chấp sau này.

Ví dụ, một doanh nghiệp nhập khẩu trái cây ký hợp đồng mua container cam từ Mỹ. Nếu bão lớn làm tàu không cập cảng được – bất khả kháng, họ được miễn trách nhiệm. Nhưng nếu thuế nhập khẩu đột ngột tăng từ 50%, khiến bán cam không còn lời – thay đổi hoàn cảnh cơ bản, họ có thể đề nghị điều chỉnh giá mua.

Luật là “cái phao” khi đời đổi thay

Sự kiện bất khả kháng và sự thay đổi hoàn cảnh cơ bản là hai “cái phao” mà pháp luật Việt Nam đưa ra để cứu hợp đồng khỏi những cú sốc bất ngờ. Chúng không mâu thuẫn mà hỗ trợ nhau, giúp các bên vượt qua khó khăn một cách công bằng. Dù bạn là sinh viên luật, luật sư, hay chỉ là người ký hợp đồng, hiểu hai khái niệm này sẽ giúp bạn linh hoạt hơn khi cuộc sống “đổi kịch bản”. Vì trong thế giới pháp luật, không phải lúc nào mọi thứ cũng đi đúng kế hoạch – nhưng luật luôn có cách để giữ mọi thứ cân bằng!

Tác giả: Hà Mạnh Tú

Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam

Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau

Hợp đồng – nghe có vẻ khô khan, đúng không? Nhưng thực ra, nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Từ việc thuê nhà, mua điện thoại trả góp, đến ký hợp đồng làm việc, tất cả đều xoay quanh những thỏa thuận được ghi trên giấy (hoặc đôi khi chỉ là lời nói). Nhưng bạn có bao giờ tự hỏi: điều gì khiến một hợp đồng không chỉ là một mớ chữ ký và điều khoản, mà còn là một mối quan hệ có thể vận hành trơn tru giữa các bên? Câu trả lời nằm ở một nguyên tắc tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng quan trọng: thiện chí.

Thiện chí trong thực hiện hợp đồng không phải là một khái niệm mơ hồ hay chỉ để làm đẹp văn bản pháp lý. Nó là một nguyên tắc được công nhận trong luật pháp của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, và đóng vai trò như người giữ hòa khí để đảm bảo các bên không chỉ tuân thủ luật mà còn hành xử công bằng, hợp lý với nhau. Vậy thiện chí là gì, nó hoạt động ra sao, và tại sao nó lại quan trọng với những người như chúng ta – từ sinh viên luật đến người dân bình thường? Hãy cùng tìm hiểu nhé!

Thiện chí là gì mà nghe “cao siêu” thế?

Trước tiên, hãy tưởng tượng bạn ký hợp đồng thuê một căn hộ. Chủ nhà đồng ý cho bạn thuê với giá 5 triệu đồng mỗi tháng, nhưng trong hợp đồng không ghi rõ ai sẽ trả tiền sửa ống nước nếu nó hỏng. Một ngày không đẹp trời lắm, mà ống nước bị bục, nước tràn lênh láng. Bạn gọi cho chủ nhà, và họ bảo: “Hợp đồng không ghi là tôi phải sửa, nên cô/chú tự lo đi!”. Bạn sẽ cảm thấy thế nào? Bực mình, đúng không? Đây là lúc nguyên tắc thiện chí xuất hiện.

Trong pháp luật, thiện chí (thường được gọi là good faith trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ hoặc nguyên tắc trung thực, thiện chí ở Việt Nam) có nghĩa là các bên trong hợp đồng phải hành xử trung thực, công bằng và hợp lý với nhau, ngay cả khi hợp đồng không ghi rõ từng chi tiết. Nó không chỉ là việc làm đúng theo chữ viết, mà còn là tinh thần hợp tác để đạt được mục đích mà cả hai bên đã thỏa thuận ban đầu.

Ở Việt Nam, nguyên tắc này được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể tại khoản 3 Điều 3, khi nói rằng các bên phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực. Nói cách khác, thiện chí giống như một “luật bất thành văn” trong lòng luật thành văn, giúp lấp đầy những khoảng trống mà các điều khoản cụ thể không thể bao quát hết.

Thiện chí hoạt động như thế nào trong thực tế?

Quay lại câu chuyện ống nước hỏng. Nếu cả hai bên đều hành xử theo thiện chí, thay vì đẩy trách nhiệm qua lại, bạn và chủ nhà có thể ngồi xuống bàn bạc: “Ống nước hỏng do sử dụng lâu năm hay do tôi vô ý làm hỏng?”. Nếu là do thời gian, chủ nhà có thể chịu chi phí sửa chữa vì đó là trách nhiệm bảo trì tài sản. Nếu do bạn vô tình làm hỏng, bạn có thể đề nghị chia sẻ chi phí. Kết quả? Cả hai đều hài lòng, mối quan hệ thuê nhà vẫn tốt đẹp, và không ai phải kiện tụng, tranh cãi mất thời gian.

Trong thực tế, thiện chí còn xuất hiện trong nhiều tình huống phức tạp hơn. Chẳng hạn, bạn ký hợp đồng mua một lô hàng vải để may quần áo. Trong hợp đồng ghi rõ số lượng là 1000 mét vải, nhưng khi giao hàng, bên bán chỉ giao 950 mét vì “hết hàng”. Nếu không có thiện chí, bên bán có thể viện cớ “hợp đồng không nói rõ phải giao đủ ngay lập tức” để thoái thác. Nhưng nếu áp dụng thiện chí, họ sẽ thông báo trước, giải thích lý do, và tìm cách bù đắp – ví dụ giao thêm 50 mét sau hoặc giảm giá. Điều này không chỉ giữ uy tín mà còn tránh được tranh chấp.

Tại sao thiện chí lại quan trọng?

Đến đây, bạn có thể nghĩ: “Ừ, thiện chí nghe hay đấy, nhưng nếu ai cũng tốt thì cần gì luật?”. Thực tế không đơn giản vậy. Con người không phải lúc nào cũng hành xử tử tế tự nhiên, nhất là khi có lợi ích tiền bạc xen vào. Đó là lý do pháp luật cần đặt ra nguyên tắc này để nhắc nhở – và đôi khi ép buộc – các bên phải chơi đẹp.

Với sinh viên luật hay người hành nghề luật, hiểu về thiện chí giúp bạn nhìn sâu hơn vào cách luật không chỉ là “đúng hay sai” mà còn là “công bằng hay không”. Với người dân bình thường, nó là kim chỉ nam để biết mình có quyền đòi hỏi sự hợp lý từ đối tác, và ngược lại, cũng phải hành xử sao cho xứng đáng. Hơn nữa, trong một thế giới mà tranh chấp hợp đồng có thể kéo dài hàng năm trời ở tòa án, thiện chí giúp tiết kiệm thời gian, tiền bạc và cả sự bình yên trong tâm hồn.

Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau

Thiện chí trong luật Việt Nam và cái nhìn quốc tế

Ở Việt Nam, nguyên tắc thiện chí không phải là điều gì mới mẻ. Như đã nhắc ở trên, Bộ luật Dân sự 2015 đã ghi nhận rõ ràng rằng mọi giao dịch dân sự – bao gồm hợp đồng – phải được thực hiện dựa trên sự trung thực và thiện chí. Nhưng bạn có biết không, khái niệm này không chỉ nằm trong luật Việt Nam mà còn phổ biến ở nhiều hệ thống pháp luật khác trên thế giới, mỗi nơi lại có cách áp dụng hơi khác nhau.

Ví dụ, trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ (Common Law), “good faith” thường được hiểu là hành xử trung thực và không lừa dối đối tác. Tuy nhiên, ở Mỹ, không phải bang nào cũng bắt buộc áp dụng thiện chí trong mọi hợp đồng – nó phụ thuộc vào loại hợp đồng và luật địa phương. Ngược lại, ở các nước theo hệ thống pháp luật dân sự (Civil Law) như Pháp hay Đức, thiện chí là một nguyên tắc cốt lõi, gần như “luật sống” trong mọi giao dịch. Bộ luật Dân sự Pháp thậm chí còn yêu cầu các bên phải đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng với tinh thần thiện chí, nếu không có thể bị coi là vi phạm.

Vậy Việt Nam thì sao? Chúng ta nằm ở hệ thống pháp luật dân sự, nên thiện chí được nhấn mạnh khá mạnh mẽ. Điều thú vị là luật Việt Nam không chỉ dừng ở việc yêu cầu các bên “tử tế” với nhau, mà còn gắn nó với văn hóa truyền thống. Chẳng hạn, câu “lời nói gói vàng” hay tinh thần “thuận mua vừa bán” trong dân gian cũng phản ánh phần nào ý nghĩa của thiện chí – làm ăn phải sòng phẳng, giữ chữ tín.

Khi thiện chí “cứu” hợp đồng khỏi tranh chấp

Bây giờ, hãy tưởng tượng một tình huống thực tế khác. Bạn là chủ một quán cà phê nhỏ, ký hợp đồng mua hạt cà phê từ một nhà cung cấp. Hợp đồng ghi rõ mỗi tháng giao 50kg cà phê rang xay, giá 200.000 đồng/kg. Nhưng giữa chừng, giá cà phê trên thị trường tăng vọt lên 300.000 đồng/kg vì mất mùa. Nhà cung cấp gọi bạn: “Tôi lỗ quá, giao tiếp thì không đủ vốn, mà ngừng giao thì vi phạm hợp đồng. Giờ tính sao?”. Nếu không có thiện chí, bạn có thể kiện họ ra tòa vì không giao đủ hàng. Nhưng nếu cả hai cùng thiện chí, bạn có thể đồng ý tăng giá tạm thời hoặc giảm số lượng giao hàng để họ không lỗ, đổi lại họ cam kết ưu đãi cho bạn khi thị trường ổn định. Kết quả là đôi bên cùng có lợi, không ai phải mất công chạy theo luật sư để thưa kiện lôi thôi.

Nhưng thiện chí có giới hạn không?

Đúng vậy, không phải lúc nào thiện chí cũng là “cây đũa thần” giải quyết mọi vấn đề. Nó không có nghĩa là bạn phải nhượng bộ vô điều kiện hay chấp nhận thiệt hại chỉ để giữ hòa khí. Thiện chí phải đi đôi với lẽ công bằng (Khoản 2 Điều 6). Nếu một bên cố tình lợi dụng thiện chí của bạn để trục lợi, bạn hoàn toàn có quyền bảo vệ mình, thậm chí đưa vụ việc ra tòa.

Chẳng hạn, quay lại vụ mua vải lúc nãy. Nếu bên bán liên tục giao thiếu hàng, viện đủ lý do mà không chịu khắc phục, thì thiện chí của bạn không bắt buộc phải kéo dài mãi. Lúc này, luật pháp sẽ đứng về phía bạn để đòi lại công bằng, dựa trên các điều khoản hợp đồng và nguyên tắc cơ bản của luật dân sự.

Thiện chí: Bài học cho tất cả chúng ta

Với sinh viên và người hành nghề luật, nguyên tắc thiện chí là một cánh cửa để hiểu sâu hơn về cách luật điều chỉnh hành vi con người, không chỉ qua chữ viết mà còn qua tinh thần. Bạn sẽ thấy rằng luật không phải lúc nào cũng cứng nhắc, mà đôi khi rất linh hoạt để thích nghi với cuộc sống. Còn với những người không học luật, thiện chí nhắc nhở chúng ta rằng trong bất kỳ giao dịch nào – dù là mua bán nhỏ lẻ hay hợp đồng lớn – cách hành xử tử tế và hợp lý luôn mang lại giá trị lâu dài.

Hãy thử nghĩ xem: Nếu bạn ký hợp đồng với một người bạn thân, bạn sẽ muốn cả hai đều thoải mái và vui vẻ, đúng không? Thiện chí chính là cách để biến điều đó thành hiện thực, ngay cả khi đối tác của bạn là người xa lạ. Nó không chỉ giúp hợp đồng được thực hiện suôn sẻ, mà còn xây dựng niềm tin – thứ quý hơn cả tiền bạc trong bất kỳ mối quan hệ nào.

Nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng: Khi luật pháp và sự tử tế gặp nhau

Thiện chí trong những câu chuyện đời thường

Để hiểu rõ hơn về thiện chí, hãy nhìn vào một vài tình huống gần gũi quanh ta. Giả sử bạn đặt một chiếc bánh sinh nhật từ một tiệm bánh nhỏ. Hợp đồng miệng là 500.000 đồng cho một chiếc bánh kem socola giao đúng ngày sinh nhật. Nhưng đến ngày giao, tiệm bánh gọi bạn: “Do lò hỏng bất ngờ, tụi mình chỉ làm được bánh vani thôi. Nếu bạn không lấy, tụi mình hoàn tiền, còn nếu lấy thì giảm giá còn 400.000 đồng.” Bạn đồng ý lấy bánh vani vì thấy họ đã cố gắng và trung thực thông báo. Đó chính là thiện chí từ cả hai phía: tiệm bánh không giấu giếm, còn bạn linh hoạt chấp nhận giải pháp thay vì nổi cáu và mất thời gian, công sức đi tìm bánh ở tiệm khác.

Một câu chuyện khác từ góc độ doanh nghiệp: Một công ty ký hợp đồng thuê mặt bằng để mở cửa hàng. Dịch Covid-19 ập đến, cửa hàng phải đóng cửa, không có doanh thu để trả tiền thuê. Bên cho thuê, thay vì đòi tiền đúng hạn hoặc đuổi công ty ra ngoài, đồng ý giảm 30% tiền thuê trong 3 tháng, với điều kiện công ty cam kết tiếp tục thuê dài hạn sau dịch. Kết quả là cả hai cùng vượt qua khó khăn, không ai phải kiện tụng. Thiện chí ở đây không chỉ cứu vãn hợp đồng mà còn cứu luôn mối quan hệ kinh doanh.

Những câu chuyện như vậy cho thấy thiện chí không phải điều gì xa vời. Nó hiện diện trong cách chúng ta giải quyết vấn đề, từ những giao dịch nhỏ lẻ đến hợp đồng triệu đô. Quan trọng là cả hai bên đều sẵn lòng đặt mình vào vị trí của nhau một chút, thay vì chỉ chăm chăm bảo vệ lợi ích cá nhân.

Làm sao để áp dụng thiện chí trong đời sống?

Nếu bạn là sinh viên luật hay chỉ đơn giản là người quan tâm đến pháp luật, có thể bạn đang tự hỏi: “Làm thế nào để tôi áp dụng thiện chí mà không bị thiệt?”. Đừng lo, đây là vài gợi ý đơn giản:

  1. Giao tiếp rõ ràng: Khi ký hợp đồng, hãy trao đổi kỹ với đối tác về những tình huống có thể xảy ra. Nếu có vấn đề, thông báo sớm để cùng tìm cách giải quyết, thay vì im lặng rồi đổ lỗi.
  2. Linh hoạt nhưng có giới hạn: Thiện chí không có nghĩa là nhượng bộ hết. Hãy sẵn sàng thỏa hiệp khi cần, nhưng đừng để đối phương lợi dụng lòng tốt của bạn.
  3. Hiểu luật để tự bảo vệ: Biết rằng thiện chí được pháp luật công nhận, nên nếu đối tác không chơi đẹp, bạn có thể dựa vào pháp luật để đòi quyền lợi.

Ví dụ, nếu bạn thuê xe máy và chủ xe giao xe bị xước dù đã hứa là xe mới, bạn có thể nhẹ nhàng yêu cầu giảm giá hoặc đổi xe. Nếu họ từ chối và cố tình gây khó dễ, thiện chí của bạn đã hết, và bạn có quyền khiếu nại dựa trên thỏa thuận ban đầu.

Kết luận: Thiện chí – chiếc cầu nối giữa luật và đời

Cuối cùng, nguyên tắc thiện chí trong thực hiện hợp đồng không chỉ là một điều khoản pháp lý khô khan. Nó là minh chứng rằng luật pháp không chỉ tồn tại để trừng phạt hay ép buộc, mà còn để khuyến khích con người đối xử tử tế với nhau. Với sinh viên và người hành nghề luật, đây là bài học về cách nhìn luật từ góc độ con người, không chỉ là văn bản. Với những người bình thường không học luật, nó nhắc nhở rằng một chút trung thực và linh hoạt có thể biến một giao dịch căng thẳng thành một trải nghiệm dễ chịu.

Hãy thử nghĩ mà xem: Nếu ai cũng mang tinh thần thiện chí vào các mối quan hệ, từ việc mua bán, thuê mướn, đến làm ăn lớn, cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn biết bao. Lần tới khi bạn ký một hợp đồng hay thỏa thuận điều gì, đừng chỉ đọc kỹ điều khoản – hãy nhớ thêm một điều: hãy đối xử với đối phương như cách bạn muốn được đối xử. Đó chính là tinh thần của thiện chí, và cũng là cách để luật pháp trở thành người bạn đồng hành, mà không phải kẻ phán xét.

Tác giả: Hà Mạnh Tú

Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam

Áp dụng biện pháp chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại đối với sản phẩm đường mía (AC02.AD13-AS01)

Giới thiệu tổng quan

Bộ Công Thương đã áp dụng biện pháp chống lẩn tránh phòng vệ thương mại (PVTM), bao gồm chống bán phá giá (CBPG) và chống trợ cấp (CTC), đối với sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Lào, Campuchia, Indonesia, Malaysia, và Myanmar. Đây là biện pháp nhằm ngăn chặn tình trạng lẩn tránh các biện pháp phòng vệ trước đó, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp này chính thức có hiệu lực từ ngày 9/8/2022 và dự kiến kéo dài đến ngày 15/6/2026, trừ trường hợp có thay đổi theo quy định pháp luật.

1. Thông tin vụ việc

1.1. Bên yêu cầu

  • Công ty Cổ phần Mía đường Sơn Dương
  • Công ty Cổ phần Mía đường Sơn La
  • Công ty Cổ phần TNHH Công nghiệp KCP Việt Nam
  • Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ
  • Công ty Cổ phần Mía đường 333
  • Công ty Cổ phần Mía đường Sóc Trăng

1.2. Hàng hóa bị áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM

  • Tên khoa học: Đường sacarose (sucrose)
  • Tên gọi thông thường: Đường cát, đường mía, đường kính, đường thô, đường trắng, đường tinh luyện, đường RE, đường RS
  • Phân loại mã HS: 1701.13.00, 1701.14.00, 1701.91.00, 1701.99.10, 1701.99.90, 1702.90.91
    (Danh sách mã HS có thể được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tế)

1.3. Xuất xứ hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM

  • Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar, Indonesia

2. Mức thuế và thời gian áp dụng biện pháp

Mức thuế CBPG và CTC

Bảng 1 (AC02.AD13-AS01): Mức thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp (áp dụng từ 9/8/2022 đến 15/6/2026)

Quốc gia

Thuế CBPG

Thuế CTC

Campuchia

42,99%

4,65%

Indonesia

42,99%

4,65%

Lào

42,99%

4,65%

Malaysia

42,99%

4,65%

Myanmar

42,99%

4,65%

Loại trừ áp dụng biện pháp PVTM đối với:

Hàng hóa được sản xuất bởi các công ty sau không thuộc phạm vi áp dụng biện pháp:

  • Kampong Speu Sugar Co., Ltd.
  • Kasekam Youveakchun Svay Rieng Co., Ltd.
  • PT. Kebun Tebu Mas
  • Mitr Lao Sugar Company Limited
  • Savannakhet Sugar Corporation
  • TTC Attapeu Sugar Cane Sole Co., LTD
  • Than Daung OO Company Limited
  • Ngwe Yi Pale Sugar Company Limited

Thời hạn áp dụng

  • Thời gian hiệu lực: Từ 9/8/2022 đến 15/6/2026
  • Gia hạn và rà soát: Có thể thay đổi theo các quyết định bổ sung của Bộ trưởng Bộ Công Thương.

3. Tình trạng vụ việc hiện nay

  • Hiện tại: Biện pháp chống lẩn tránh biện pháp PVTM đang được áp dụng đối với hàng hóa từ các quốc gia nêu trên.

4. Văn bản pháp luật liên quan đến vụ việc

  • Quyết định 1407/QĐ-BCT năm 2024: Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới.
  • Quyết định 494/QĐ-BCT năm 2024: Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới.

Các sự kiện đáng chú ý

Thời gian

Sự kiện

21/09/2021

Khởi xướng điều tra

01/08/2022

Ban hành quyết định áp dụng biện pháp chống lẩn tránh PVTM

28/03/2023

Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới

11/12/2023

Ban hành quyết định rà soát nhà xuất khẩu mới

11/03/2024

Gia hạn thời hạn rà soát nhà xuất khẩu mới

10/06/2024

Công bố kết quả rà soát nhà xuất khẩu mới

Xem thêm: Toàn cảnh áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại tại Việt Nam – 29 vụ việc từ 2009 đến 2024

Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

Kính chào Quý khách hàng,

Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.

Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam; 

(ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;

Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong. 

Trang dữ liệu thông tin pháp lý về Mã HS của Caselaw Việt Nam cập nhật các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam. Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam đã áp thuế chống bán phá giá đối 7 nhóm sản phẩm với 74 mã HS hàng hóa có xuất xứ từ 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan.

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam

Để biết mã HS của hàng hóa nhập khẩu có bị đánh thuế Chống bán phá giá hay không, Quý khách hàng truy cập trang Tính Thuế chống bán phá giá. Sau đó nhập mã HS 8 số và bấm kiểm tra.
 

Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:

(ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:

Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu. 

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:

Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.

Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc. 

Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.

Trân trọng,

Caselaw Việt Nam Team

7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)

1. Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp

2. Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất

3. Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)

4. Hợp Đồng Cho Mượn Đất

5. HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)

6. HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)

7. HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)

LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CHO LUẬT SƯ: Khác biệt giữa làm việc tại HÃNG LUẬT và PHÁP CHẾ? (Phần 2/2)

Tác giả: Luật sư Trịnh Ngọc Tuấn
Facebook: The skilled lawyers - Kỹ năng luật sưhttps://www.facebook.com/theskilledlawyers/   

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

(Những bạn nào đã đọc phần 1 có thể đọc tiếp trên post này, những bạn nào chưa đọc có thể xem phần 1 tại: https://caselaw.vn/phap-che/lua-chon-nghe-nghiep-cho-luat-su-khac-biet-giua-lam-viec-tai-hang-luat-va-phap-che-phan-1)

6. THĂNG TIẾN

Trong hãng luật sẽ có nhiều thứ bậc để thăng tiến: trợ lý luật sư (paralegal/legal assistant), luật sư cấp dưới (junior associate), luật sư (associate), luật sư cấp cao (senior associate), luật sư thành viên (partner), luật sư điều hành (managing partner)…Bên cạnh đó con đường cấp bậc cũng khá hấp dẫn nếu bạn thể hiện tốt bởi đó là môi trường dễ dàng hơn để đo đếm được hiệu quả kinh tế bạn mang lại cho văn phòng. 

Phần lớn các phòng pháp chế thường được cấu trúc thành hai loại vị trí, điều hành và nhân viên. Bạn hiểu việc thăng tiến sẽ như thế nào rồi chứ. Đừng nhầm lẫn rằng tôi nói bạn sẽ không có cơ hội để được thăng tiến, tôi chỉ muốn nói là nó ít hơn so với trong hãng luật. Về cơ bản, đó là một cái thang ít bậc. Và môi trường pháp chế cũng khó đong đếm hiệu quả của từng nhân viên hơn.

7. CHUYỂN ĐỔI MÔI TRƯỜNG

Việc một luật sư tại hãng luật chưa hề có kinh nghiệm pháp chế chuyển sang làm tại ban pháp chế sẽ dễ dàng hơn nhiều so với điều ngược lại. Tại sao? Lý do như đã nói đến ở trên, giờ làm việc, phong cách làm việc, chuyên môn…v.v. Tổng quát lại thì những kinh nghiệm có được tại hãng luật có thể áp dụng khi chuyển sang môi trường pháp chế một cách dễ dàng hơn. Điều này không có nghĩa là bạn không thể vào một hãng luật sau một thời gian dài chỉ làm pháp chế. Nó chỉ có nghĩa là bạn sẽ gặp nhiều khó khăn để chứng tỏ sự xứng đáng của mình với nhà tuyển dụng của hãng luật, những người thường sẽ ưu tiên cho các ứng viên có kinh nghiệm làm việc tại hãng luật tương tự.

8. DANH TIẾNG

Bạn thường nhìn thấy tên ai trên truyền thông, báo chí, bảng xếp hạng các luật sư như Legal 500, chambers and partners, Asia law, who is who legal, hay IRFL 1000 …v.v Đúng vậy, đó là các luật sư tại các hãng dẫn đầu và những luật sư có văn phòng riêng. Vậy, có phải vì những luật sư đó có chuyên môn vượt trội so với những đồng nghiệp làm pháp chế? Không, họ là những luật sư hàng đầu nhưng bạn không nên tự động nghĩ rằng chuyên môn của họ tốt hơn tất cả những luật sư pháp chế nội bộ khác. Nếu họ nhận vị trí của một TBPC, họ sẽ vấn gặp rất nhiều khó khăn như họ chưa từng gặp. 

Một điều đương nhiên, một hãng luật, văn phòng luật vẫn là một công ty, một thực thể kinh doanh. Nó cũng cần phải marketing, quảng cáo như tất cả các loại công ty khác. Chắc bạn hiểu tầm quan trọng của marketing trong thời đại này rồi. Như một điều tất yếu, khi một hãng luật xây dựng danh tiếng, các luật sư của họ sẽ có nhiều cơ hội hơn để xuất hiện trên tạp chí, truyền thông và danh sách bảng xếp hạng luật sư. 

Trong khi đó, các công ty mong muốn luật sư nội bộ chỉ làm việc cho riêng mình. Hãy tưởng tượng bạn sở hữu một công ty và có luật sư riêng, bạn sẽ mong muốn luật sư đó dành toàn bộ thời gian và nỗ lực để phục vụ công ty của bạn hay luật sư đó vẫn cung cấp dịch vụ cho những người khác, đó là còn chưa tính đến tư vấn cho các đối thủ kinh doanh của bạn? Rất nhiều công việc TBPC sẽ gắn với một hạn chế công việc kinh doanh riêng. Đúng vậy, đối với TBPC (mức độ cao nhất của luật sư nội bộ), họ ít khi xuất hiện trên tạp chí hay bảng xếp hạng các luật sư. 

Vì vậy, nếu bạn muốn trở thành luật sư “có tiếng”, làm việc trong hãng luật sẽ tốt hơn cho bạn. Nếu bạn làm việc trong phòng pháp chế, đừng ngây ngô nghĩ rằng nếu bạn sở hữu vốn kiến thức uyên bác và kỹ năng xuất sắc thì cộng đồng sẽ tự động biết đến bạn. Bạn phải bước ra sân khấu và thể hiện cho mọi người xung quang bạn khá như thế nào. Khi bạn làm cho một hãng luật, khách hàng và các hãng luật khác sẽ là khán giả cho sân khấu đó, và nếu bạn làm tốt, sẽ có nhiều người biết đến bạn hơn.

9. PARTNER so với TBPC

Tôi không biết nên dùng từ gì gọn gàng trong tiếng Việt để chỉ “Partner” (có thể dịch là “luật sư thành viên”), vì vậy nên xin giữ nguyên từ này cho nó gọn. Một partner tức là một luật sư có vốn sở hữu trong hãng luật. Thường thường thì một hãng luật sẽ có nhiều partner. 

Nếu bạn vẫn đọc phần này thì xin cảm ơn sự kiên nhẫn của bạn! Và tôi đoán rằng bạn có thể là một người tham vọng hoặc khá tò mò…Thành thật mà nói, tôi chưa bao giờ trải qua hai vị trí cao nhất này và nó là xa vời. Nhưng tôi đã làm việc rất gần với những người nắm giữ vị trí này nên tôi có thể tiết lộ một số điều mà tôi biết. 

Cả hai đều là những vị trí rất thử thách! Là TBPC có nghĩa là bạn chịu trách nhiệm toàn bộ cho hoạt động của phòng pháp chế và các vấn đề pháp lý. Bạn sẽ phải làm việc rất gần với các lãnh đạo công ty và chịu sự ảnh hưởng bởi phong cách của họ. Nếu sếp của bạn làm việc ngày đêm thì bạn cũng phải sẵn sàng ngày đêm. Cho dù bạn có là một luật sư xuất sắc thì một điều kiện tiên quyết để bạn có thể gắn bó và trụ được lâu dài như một TBPC đó là bạn phải rất “hợp” với phong cách của lãnh đạo công ty. 

Nói về việc làm partner. Ok, bạn bắt đầu là một trợ lý luật sư, bạn làm tốt và tiến bộ, bạn trở thành một luật sư cấp cao thành công và gắn bó lâu dài với hãng luật. Tiếp theo thế nào? Hãng luật sẽ đề xuất bạn trở thành partner để ghi nhận những cống hiến của bạn. Vâng, trở thành một partner, nhiều quyền lực hơn khiến cuộc sống trở nên dễ dàng… Đó là một phần thôi, thực tế khác như vậy. Đây là một điều đã từng làm tôi rất ngạc nhiên: tôi biết và đã nghe về một số tình huống mà các luật sư Việt Nam/hay cả luật sư nước ngoài của các công ty luật nước ngoài từ chối với đề nghị trở thành partner của hãng luật mà mình đang làm việc. Vâng, đó là sự thật. Tại sao? Đề nghị trở thành partner thường gắn với điều kiện về mua phần vốn kèm theo các cam kết hiệu quả khác, điều này dẫn đến sự sụt giảm về thu nhập trong giai đoạn đầu. Ngoài ra, trở thành partner, bạn không còn đơn thuần chỉ là một luật sư nữa, bạn là một doanh nhân điều hành dịch vụ pháp lý. Đó không chỉ đơn giản là một món quà mà còn là một thử thách. 

Công việc thử thách gắn liền với phần thưởng xứng đáng. Một anh bạn luật sư của tôi từng tiết lộ anh nhận được đề nghị làm luật sư nội bộ với mức lương tháng 10K USD từ một tập đoàn trong nước! Một con số thật lớn, và đó là con số lớn nhất tôi được biết cho vị trí luật sư nội bộ. Con số trung bình thấp hơn nhiều, bạn có thể lên Vietnamwork để kiểm tra. Tôi không biết các partner thu nhập bao nhiêu nhưng tôi đoán rằng partner sẽ thu được nhiều hơn. Bạn có thể xem mục 2 - Lương để biết cách tìm hiểu so sánh lương. Ngoài khoản lương ra, partner sẽ có cổ tức/lợi nhuận từ hãng luật nhưng TBPC cũng có thể nhận thưởng và cổ phiếu thưởng từ công ty của họ, điều này làm khoảng cách nhỏ lại. 

Hy vọng qua bài này bạn sẽ có được một cái nhìn nhất định về sự khác biệt giữa hai môi trường phổ biến của nghề luật sư hiện nay. Không có lựa chọn nào là hoàn hảo, tuy nhiên sẽ luôn có cái phù hợp hơn cho một mục tiêu nào đó của bạn.

Chúc may mắn!