1189/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2169
- 72
Cha mẹ của ông Chung và bà Đào đều đã chết trước ông Chung, bà Đào. Ngoài 06 người con trên ông Chung và bà Đào không có con riêng, con nuôi nào khác. Ông NĐ_Xoan được biết mẹ ông NĐ_Xoan (bà Đào) đã ký Hợp đồng tặng cho nhà (số công chứng 952 ngày 12/3/1996 tại LQ_Phòng Công chứng Số 2) căn nhà 10/14 cho bà Hoàng Thị Xiêm. Ông NĐ_Xoan khởi kiện yêu cầu hủy một phần Hợp đồng tặng cho nhà giữa bà Nguyễn Thị Đào với bà Hoàng Thị Xiêm và yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật phần di sản của ông Hoàng Đình Chung, bà là đại diện nguyên đơn đề nghị chia thêm phần di sản của bà Nguyễn Thị Đào vì: Hợp đồng tặng cho nhà không đúng thủ tục, bà Nguyễn Thị Đào đã kê khai không đúng sự thật (không khai đầy đủ các đồng thừa kế của ông Chung – Theo Tờ khai chuyển dịch tài sản nộp thuế trước bạ ngày 16/10/1992 của bà Nguyễn Thị Đào); Theo Điều 2 của Hợp đồng tặng cho thì bà Đào có cam kết căn nhà đem cho thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên A (tức bà Đào), không bị tranh chấp về quyền sở hữu. Tuy nhiên toàn bộ căn nhà này không thuộc quyền sở hữu của một mình bà Đào mà còn thuộc sở hữu của những đồng thừa kế của ông Chung.
117/2011/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1722
- 46
Về hàng thừa kế được hưởng di sản của ông Mạnh: hàng thừa kế thứ 1 và hàng thừa kế thứ 2 đều đã chết, hàng thừa kế thứ 3 hiện còn sống gồm: bà NĐ_Sa, bà NĐ_Đan, ông NĐ_Tân kêu ông Mạnh bằng chú ruột hưởng thừa kế thế vị của ông Mai Văn Cường. Ông LQ_Nguyễn Văn Vinh kêu ông Mạnh bằng cậu ruột hưởng thừa kế thế vị của bà Mai Thị Năm. Bà NĐ_Sa, bà NĐ_Đan, ông NĐ_Tân được hưởng 1 kỷ phần, ông LQ_Vinh được hưởng 1 kỷ phần. Bà BĐ_Phương có công chăm sóc phụng dưỡng ông Mạnh từ năm 1996 đến năm 2007, được chia giá trị di sản của ông Mạnh là 1 phần, ngang bằng với kỷ phần ông NĐ_Tân, bà NĐ_Sa, bà NĐ_Đan và ông LQ_Vinh được hưởng là hợp lý.
21/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1681
- 44
Cụ Sâm chết tháng 9/1979; cụ Liễn chết năm 1999. Di sản của cụ Sâm và cụ Liễn gồm 1/2 ngôi nhà ba gian lợp ngói, sân gạch, bể nước trên diện tích 526m2 đất tại thôn VT, xã MK, huyện TL, thành phố HN (1/2 ngôi nhà là phần đóng góp xây dựng của vợ chồng ông Ky và bà BĐ_Tài). Di sản do bà BĐ_Nguyễn Thị Tài (vợ ông Ky) quản lý, sử dụng. Ngoài tài sản nêu trên, cụ Sâm và cụ Liễn còn để lại 1/2 ao có diện tích 436m2 tại xóm Cầu, thôn VT, xã MK, huyện TL, thành phố HN; thửa đất ao này do ông LQ_Thọ và bà LQ_Tiêm quản lý, san lấp làm nhà và trồng cây.
09/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1639
- 18
Chị NĐ_Trần Huỳnh Lợi trình bày: Chị và anh Đặng Đình Tuấn là vợ chồng hợp pháp theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 135 ngày 22/12/1999. Trước khi đăng ký hôn nhân vợ chồng chị đã chung sống với nhau từ tháng 9/1997 (tổ chức lễ đính hôn ngày 20/5/1997 và tổ chức lễ cưới ngày 05/09/1997). Anh Tuấn là con của ông BĐ_Đặng Hùng và bà BĐ_Lê Thị San. Chị và anh Tuấn có 01 con chung là LQ_Đặng Trần Bảo An, sinh ngày 19/8/2005. Chị và anh Tuấn tạo lập được một số tài sản chung như sau: - Căn nhà 208/6 HVH, phường 9, quận PN, thành phố HCM mua ngày 12/8/1998, do ông Đặng Đình Tuấn đứng tên. - Xe ô tô 04 chỗ hiệu Ford Mondeo 2.5 mang biển số 52Y-0270, mua ngày 27/12/2004 do ông Đặng Đình Tuấn đứng tên. - Xe máy hiệu Attila biển số 54R2-0990 - 9.450 cổ phiếu của Công ty Cổ phần Dịch vụ Du lịch Dầu khí (Petrotexco). - Số tiền gửi Ngân hàng TMCP A là 23.556.263đ.
19/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1425
- 24
Tài sản chung của vợ chồng cụ Phan Danh và cụ Trần Thị Lựu gồm có một ngôi nhà cấp 4 diện tích 60m2 trên 3 sào 60 thước đất (theo chứng thư kiến điền cấp ngày 24/9/1963). Sau khi cụ Lựu chết, nhà đất do cụ Danh quản lý và sau khi cụ Danh chết, nhà đất của hai cụ do vợ chồng bà BĐ_Ngọn quản lý, sử dụng. Ngày 11/6/2004 bà NĐ_Phan Thị Tự và bà NĐ_Phan Thị A khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản của hai cụ là căn nhà trên 1900m2đất (hai cụ có 2.200m2 đất khi còn sống đã cho bà BĐ_Ngọn 300m2) theo pháp luật và xin nhận bằng hiện vật. Ngày 16/8/2004 bà NĐ_Tự, bà NĐ_A nộp tạm ứng án phí.
04/2012/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1185
- 19
Bản di chúc ngày 20/4/2011 cụ Trần Thị Việt Nga (Phạm Thị Nga) lập cho các cháu cụ Đỗ Văn Thi là ông BĐ_Đỗ Quang Lung, BĐ_Đỗ Quang Minh và BĐ_Đỗ Văn Phong (cụ Thi là chú ruột), được hưởng thừa kế tài sản là nhà số 13 phố HB là không đúng ý nguyện của cụ Nga và không hợp pháp vì không có chữ ký của cụ Nga. Bà Đỗ Thị Vân đã xác nhận việc lập di chúc không đúng theo các quy định của pháp luật, Công chứng viên Nguyễn Thị Lan Hương cầm tay cụ Nga điểm chỉ vào di chúc là không đúng quy định pháp luật.
05/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1168
- 10
Theo đơn khởi kiện ngày 01/10/2006 và lời khai của ông Phạm Văn Nghị (đại diện cho bà NĐ_Liên) trong quá trình tố tụng thì: cha mẹ bà NĐ_Liên là cụ Bùi Trọng Minh (chết năm 1973 không để lại di chúc) và cụ Nguyễn Thị Nguyệt (chết năm 1997 không để lại di chúc) sinh được 05 người con: ông BĐ_Bùi Trọng Sinh, bà NĐ_Bùi Thị Liên, bà BĐ_Bùi Thị Linh, ông BĐ_Bùi Trọng Thắng và ông Bùi Trọng Thủy (ông Thủy chết năm 2005). Khi còn sống, cụ Minh, cụ Nguyệt tạo lập được khối tài sản gồm: 01 lô đất 1,9ha tại ấp AL, xã BH nay là khối 8, thị trấn BH, huyện KB, ĐL (cụ Nguyệt đã bán 4000m2 đất cho ông Ngô Đình Chi); 01 nhà và đất tọa lạc tại khu vực chợ Phú Cường, thị trấn BH (ông BĐ_Bùi Trọng Sinh đã bán). Sau khi cụ Nguyệt chết thì ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng, ông Thủy, bà BĐ_Linh đã tự ý phân chia 1,5ha đất mà không có sự đồng ý của bà NĐ_Liên. Nay, bà NĐ_Liên yêu cầu phân chia di sản thừa kế của cha mẹ theo quy định pháp luật. Riêng phần đất mà ông Thủy đã đựợc chia trước đây trong lô đất 1,5ha nếu ông BĐ_Sinh, ông BĐ_Thắng và bà BĐ_Linh thống nhất không yêu cầu chia thì bà NĐ_Liên đồng ý không tranh chấp và chỉ yêu cầu chia phần đất còn lại. Ngoài ra, bà NĐ_Liên còn gửi về cho bà BĐ_Linh số tiền 130.000.000đ để bà BĐ_Linh trả nợ cho cụ Nguyệt nên bà NĐ_Liên yêu cầu được hoàn trả lại số tiền này.
3294/2009/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1158
- 20
NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện đề ngày 11/3/2005 (Bút lục số 35; 36) của ông Trần Trạch Quyền trình bày thì nội dung vụ án như sau: Ông là con nuôi của bà Huỳnh Bửu Trân. Bà Trân có chồng là ông Đặng Hạnh. Bà Trân chết năm 2000; ông Hạnh xuất cảnh sang năm 1979 và chết tại Malaysia ngày 02/5/1980. Ông Hạnh có một người con riêng là ông Đặng Giọc Hy, hiện đang cư trú tại Mỹ. Tầng trệt của căn nhà số 114/3B NNT, phường 13, quận X là tài sản của bà Trân, ông Hạnh sang lại của ông Tạ Khai Xương, bà Ngô Thị Đoàn với giá tiền 350.000 đồng (ba trăm năm mươi ngàn đồng) vào năm 1969. Hàng tháng đóng tiền thuê đất 2.700 đồng (hai ngàn bảy trăm đồng) đến năm 1985 thì ông Xương không thu tiền đất nữa nên bà Trân tiếp tục đóng thuế đất cho Nhà Nước. Trong quá trình sử dụng nhà, ông Hạnh, bà Trân sửa chữa nhà, xây hồ chứa nước, làm nhà vệ sinh và đúc gác giả, lót gạch nền nhà.
844/2015/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1153
- 11
Theo đơn khởi kiện ngày 23/01/2013 và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn – ông NĐ_Lý Vĩ Xoăn trình bày: Nhà và đất tọa lạc tại số 199/17 LQS, Phường B, Quận X, Thành phố HCM là tài sản của ông Đại Hoàng (chết năm 1993, không có di chúc) và bà Lý Phước Tiêu (chết năm 2011, không có di chúc). Năm 2006, bà Tiêu và những người con gồm ông và các ông bà BĐ_Đại Vĩ Chánh, ông BĐ_Đại Vĩ Cầm, LQ_Dan Lữ, Đại Vĩ Quốc (Đại Vị Quốc) và LQ_Đại Tú Quỳnh khai nhận di sản thừa kế được Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất số AC989561, vào sổ cấp giấy chứng nhận số HO1330/2006 ngày 30/8/2006.
365/2013/DS-GĐT: Yêu cầu chia thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1034
- 18
Nguyên đơn NĐ_Võ Văn Ninh trình bày: Cha chúng tôi tên Võ Văn Sướng, chết năm 1997, mẹ tôi Khấu Thị Lệ chết năm 1996. Cha mẹ có 7 người con gồm: NĐ_Võ Văn Trung, NĐ_Võ Văn Ninh, NĐ_Võ Thị Dương, NĐ_Võ Văn Hùng, NĐ_Võ Thị Loan, BĐ_Võ Văn Kiên, NĐ_Võ Thị Mỹ Linh. Cha mẹ có một phần đất diện tích 6.160m2, đo đạc thực tế là 6.624m2, cha mẹ chết không để lại di chúc hay định đoạt cho ai. Sau khi cha mẹ chết, anh em có thống nhất phần đất của cha mẹ để lại giao cho BĐ_Võ Văn Kiên canh tác nhưng trong quá trình canh tác, BĐ_Kiên không chăm sóc và tu bổ đất nên chúng tôi yêu cầu chia tài sản của cha mẹ để lại cho các con trai là 1.000m2, con gái là 500m2, cụ thể như sau: NĐ_Võ Văn Trung trước đây cha mẹ có cho 635m2 nay vêu cầu chia thêm 365m2 để đủ 1.000m2, NĐ_Võ Văn Hùng 1.000m2, NĐ_Võ Thị Dương 500m2, NĐ_Võ Thị Loan 500m2, NĐ_Võ Thị Mỹ Linh 500m2, BĐ_Võ Văn Kiên phần còn lại ở thửa 317 tờ bản đồ số 4 ấp An Quới, xã ĐT, huvện MCN, tỉnh BT. Phần thô mộ giao cho ai cúng giỗ thì quản lý, phần đất giáp rạch hiện đã lở không canh tác được có diện tích 902m2 nhập vào thổ mộ.