- Vụ việc, Vụ án: Tranh chấp nghĩa vụ cấp dưỡng
- Loại vụ việc: Phúc thẩm
- Số hiệu: 2475/2009/HNGĐ-PT
- Ngày tuyên án: 21-12-2009
- Kết quả vụ việc: Giữ nguyên bản án sơ thẩm
- Bộ luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15/06/2004 của Quốc Hội (Văn bản hết hiệu lực) (Khoản 1 Điều 275; Khoản 1 Điều 132)
- Luật Hôn nhân và Gia đình số 22/2000/QH10 ngày 09/06/2000 của Quốc Hội (Văn bản hết hiệu lực) (Điều 50; Điều 92)
- Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14/06/2005 của Quốc Hội (Văn bản hết hiệu lực) (Khoản 2 Điều 305)
683/2006/HN-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 743
- 8
Bà Nguyễn Thị Ngọc Dung và ông Nguyễn Hùng Cường có một con chung là Nguyễn Trung Nghĩa sinh ngày 21/11/2002, hiện bà Dung đang nuôi dưỡng. Theo quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì ông Nguyễn Hùng Cường có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng một tháng cho đến khi trẻ đủ 18 tuổi. Nay bà Nguyễn Thị Ngọc Dung thay đổi yêu cầu cấp dưỡng nuôi con một lần với mức 55.000.000 đồng, vì việc nhận tiền cấp dưỡng hàng tháng tại cơ quan thi hành án huyện Cần Giờ quá khó khăn
14/2010/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 708
- 16
Theo án sơ thẩm, nguyên đơn là Nguyễn Thị Thanh Ngọc trình bày: Bà và ông Nguyễn Văn Cẩn bắt đầu chung sống với nhau từ năm 1994, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phước Hòa, huyện PG, tỉnh BD. Do cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nên năm 2001 bà nộp đơn xin ly hôn và được Tòa án nhân dân huyện PG chấp nhận bằng quyết định công nhận thuận tình ly hôn cà sự thỏa thuận của đương sự số 26/2001/QĐTTLH ngày 05/10/2001. Trong Quyết định nêu rõ:
14/2008/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 677
- 11
Theo đơn khởi kiện ngày 31-7-2007 và các lời khai tiếp theo tại tòa án sơ thẩm, bà NĐ_Hương trình bày: Từ khi ly hôn, ông BĐ_Trí vẫn cấp dưỡng nuôi con đầy đủ. Tuy nhiên, hiện nay cháu Cảnh đã lớn, các nhu cầu chi phí nuôi dưỡng sinh hoạt ngày càng tăng. Trong khi hiện tại mẹ con bà vẫn đang phải thuê nhà việc làm không ổn định. Còn ông BĐ_Trí hiện có mức thu nhập hàng tháng cao. Do vậy, bà đề nghị ông BĐ_Trí tăng mức cấp dưỡng nuôi con từ 800.000đ/tháng lên 2.000.000đ/tháng.
20/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 590
- 5
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 31 tháng 12 năm 2003 anh BĐ_Linh vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, không công nhận cháu Nguyễn Văn Phương là con chung của anh với chị NĐ_Lộc, không thống nhất cấp dưỡng nuôi cháu Phương cũng như tiền lo chi phí sinh sản bằng 500.000 đồng. Anh BĐ_Linh yêu cầu Hội đồng xử án tổ chức giám định ADN để xác định cháu Phương có phải là con chung của Anh với chị NĐ_Lộc, nếu cháu Phương đúng là con của anh, anh sẽ chịu toàn bộ chi phí giám định cùng như tiền xe đi lại của gia đình chị NĐ_Lộc, tiền lãi theo lãi suất Ngân hàng tương ứng số tiền mà gia đình chị NĐ_Lộc đã ứng trước cho việc giám định (6.000.000 đồng). Chị NĐ_Lộc và bà NĐ_Hồng (mẹ của chị NĐ_Lộc) cũng yêu cầu Hội đồng xử án tổ chức giám định ADN nếu cháu Phương không phải là con chung của anh BĐ_Linh với chị, thì chị NĐ_Lộc và bà NĐ_Hồng sẽ chịu toàn bộ chi phí giám định cũng như tiền xe đi lại của anh BĐ_Linh và gia đình anh, tiền lãi theo lãi suất của Ngân hàng tương ứng với số tiền mà gia đình anh BĐ_Linh đã ứng trước cho việc giám định (6.000.000 đồng).
11/2006/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 582
- 5
Nguyên đơn Võ Thị Gạch trình bày: Chị và anh Mai Văn Sử có tổ chức lễ cưới vào ngày 06/4/2001 âm lịch nhưng không có đăng ký kết hôn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin được ly hôn với anh Sử. Chị và anh Sử có 01 đứa con chung tên Võ Đang Thanh, sinh 15/02/2002 chị xin được nuôi con, yêu cầu anh Sử cấp dưỡng mỗi tháng 300.000đ cho đến khi cháu tròn 18 tuổi. Về tài sản: Nữ trang ngày cưới gồm 14 chỉ vàng 24K, 05 chỉ vàng 18K. Chị xin được hưởng 11 chỉ vàng (trong đó có 5 chỉ vàng 18K vòng si men và 6 chỉ vàng 24K).
02/HNPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 482
- 3
Theo nguyên đơn chị NĐ_Thạch Thị Hòa trình bày: Chị và anh BĐ_Lộc tìm hiểu yêu thương nhau được 3 tháng đến tháng 12/2000 anh BĐ_Lộc rước chị về nhà cha mẹ anh BĐ_Lộc chung sống như vợ chồng. Ở chung khoảng nửa tháng thì anh BĐ_Lộc đi nghĩa vụ quân sự và chị ở cùng cha mẹ anh BĐ_Lộc thêm nửa tháng nữa thì chị NĐ_Hòa biết có mang thai. Đến ngày 24/10/2001 chị NĐ_Hòa sinh được 1 cháu trai đặt tên là Trương Thành Luân, trước và sau khi sinh chị NĐ_Hòa có dẫn con đến thăm anh BĐ_Lộc đang nhập ngũ. Hiện nay chị NĐ_Hòa đang nuôi con, chị yêu cầu anh BĐ_Lộc phải nhận cháu Luân là con, cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng bằng 150.000 đồng và trợ cấp lúc sinh con bằng 1.500.000 đồng.
16/2006/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 473
- 4
Theo nguyên đơn Sơn Thái Hoàng trình bày: Ông và bà Kim Thị Ánh xây dựng gia đình vào năm 1982 hôn nhân tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LH, huyện CT, tỉnh TV, tại quyển số 1, số đăng ký 116. Quá trình chung sống có 03 người con chung: 1/ Sơn Kim Ngân, sinh năm: 1982; 2/ Sơn Thái Quí, sinh năm: 1985; 3/ Sơn Thái Hòa, sinh năm: 1988. Quá trình vợ chồng sống chung hạnh phúc đến năm 1989 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không phù hợp, thường cải vã qua lại trong cuộc sống dẫn đến ly thân, nguyện vọng ông xin được ly hôn với bà Ánh. Trường hợp ly hôn về con chung ông xin được cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên, về tài sản và nợ chung không có nên không yêu cầu.